Châu Phương ngẩng mặt nhìn lên không, nhìn vầng mây bạc trôi lơ lửng một lúc lâu, trầm giọng thốt:
- Bên trong hẳn phải có nguyên nhân... nguyên nhân đó, là phần bí mật của bà tạ..
Phương bửu Nhi gật đầu, không nói gì nữa.
Châu Phương thấy hắn nín thinh, lấy làm kỳ, hỏi:
bạn đang xem “Ân thù kiếm lục - Cổ Long” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
- Tại sao ngươi không hỏi tiếp? Thế ngươi chẳng muốn hiểu thêm à?
Phương bửu Nhi lắc đầu:
- Chẳng phải vậy đâu, cái gì thuộc về phạm vi bí mật của kẻ khác, tôi chẳng bao giờ tìm hiểu, bởi tìm hiểu điều bí mật của một người là vô liêm sỉ.
Châu Phương cười nhẹ:
- Tiểu tử đáng khen lắm!
Lão nhìn sang Ngưu thiết Oa.
Gã đang mở to đôi mắt đến xuất thần.
Châu Phương lấy làm lạ, đưa mắt về hướng Ngưu thiết Oa đang nhìn cuộc chiến đang đến lúc khốc liệt nhất.
Bình nhật, Ngưu thiết Oa đối với bất cứ sự việc gì chẳng bao giờ chuyên tâm, nhất chí, song hiện tai, gã nhìn, mắt mở tròn, mi không chớp, gã nhìn ngây, nhìn dại.
Bình nhật, gã ngờ nghệch, ngốc nghếch như đứa bé con, song hiện tại, gương mặt gã trang nghiêm phi thường, trang nghiêm như một nhà sư nhập định, như một trang thư sinh đọc sách thánh hiền với tất cả lòng tôn kính.
Hiển nhiên, con người chất phác, thật thà đó đối với vũ đạo, có một trực giác lãnh hội cũng như hân hoan không thể giải thích nổi!
Thì ra trên bờ, Vương bán Hiệp và Vương đại Nương đã xuất thủ giao đấu rồi.
Song phương, một động, một tịnh.
Người tịnh, tịnh như hòn núi, hòn núi đứng trơ vơ giữa trời, tịnh lã lẽ tự nhiên, tịnh dễ dàng.
Nhưng ở đây, cái tịnh trước cái động mới khó giữ vững. Vậy mà người tịnh giữ được như thường, vững như chiếc cọc đá cắm sâu dưới đất, giữa một giòng sông, nước cuốn.
Vô luận có áp lực thế nào, thì cũng chẳng lay nổi chiếc cọc đá đó.
Còn người động, thì như én liệng, như bướm vờn, như lá rụng hoa bay.
Nhưng cái nhanh hơn hẳn con én, cái nhẹ hơn hẳn cánh bướm, biến hóa vô cùng, dù cho ai tinh mắt, cũng chẳng nhận định được từng động tác một, dù cho ai nhanh tay cũng chẳng chụp được con người động đó, ảo diệu hơn hẳn một cái bóng ẩn hiện vô thường.
Động muốn động cho nhanh, phải là người lành lặn, còn tịnh thì rất hợp với phế nhân.
Cho nên thoạt nhìn hai bóng người một động một tịnh tất ai cũng cho rằng người động là Vương bán Hiệp, còn người tịnh là Vương đại Nương.
Nhưng không! Không phải vậy!
Người động, là Vương đại Nương, còn người tịnh là Vương bán Hiệp.
Mất cả đôi chân đến tận đầu gối, tại sao bà chọn cái động? Không có chân để chạy, bà ta làm sao động được?
Bà dùng hai chiếc trượng bằng sắt, mỗi tay cầm một chiếc, trượng chỏi xuống đất làm chân.
Khi chạy nhảy, hai chiếc trượng tung tăng, trượng hữu chạm đất thì trượng tả lại bay vút tới như độc xà vọt từ trong hang ra ngoài đớp mồi.
Trượng tả chạm đất thì trượng hữu lại cử lên, trượng hữu rít gió vù vù, còn trượng tả đánh ra rất nhẹ nhàng.
Nhìn qua thế công của bà, thì thấy bà dùng trượng tả làm chủ lực, dù bà sử dụng rất nhẹ nhàng. Còn trượng hữu tuy đánh ra vun vút, song chỉ để hỗ trợ, bổ túc trượng tả mà thôi.
Bà dùng hai trượng, một nhẹ, một nặng, một nhanh, một chậm, nặng tăng áp lực cho nhẹ, nhanh bổ khuyết cho chậm, tỏ rõ bà có một lối công rất độc đáo, ngụy dị, lợi hại.
Phàm trong vũ học, thân hình biến hóa ảo diệu như thế nào cũng phải lấy hông, đùi, gối, bàn chân làm chủ.
Cúi mình xuống là uốn hông, đi theo lối xà hành là phải dùng đầu gối, vô luận là người tài giỏi đến đâu cũng phải lấu mấy bộ phận đó làm chủ lực.
Nhưng Vương đại Nương đã cụt chân, thì lúc biến hóa thân hình bà phải dùng ngón tay, cổ tay, cùi chỏ, bà lấy bộ phận đối chiếu bên thân trên thay thế cho những bộ phận thân dưới, ngoài ra bà còn cậy vào đôi vai là chỗ chịu vững nhất.
Giả sử một người, thân hình còn lành lặn, khi sử dụng chủ lực với phần thân trên, còn phải bảo vệ phần thân dưới, do đó tâm và lực phân tán. Còn Vương đại Nương trái lại được cái lợi là khỏi lo bảo vệ phần dưới, và như vậy bà tập trung tâm lực ở phần thân trên, uy lực phát huy phải mạnh hơn nhiều.
Giả như, một người sử dụng chiêu Phượng Hoàng Thức Dực, tất phải để hở phần thân giữa và phần thân dưới, như vậy là phải phân tâm lực bảo vệ vừa phần trên vừa hai phần giữa và dưới, uy lực phát huy kém mạnh là lẽ dĩ nhiên, cho nên có người dè dặt phải xử dụng luôn chiêu Huyền Điểu Hoạch Sa, để giữ gìn phần dưới.
Đánh ra một chiêu, để tập trung công lực, đánh ra một lúc hai chiêu hẳn phải chia công lực ra hai nơi, nếu gặp địch thủ cao tài thì phải chật vật lắm.
Vương đại Nương tàn phế phần dưới là một điều hại, nhưng lại được cái lợi khác bù vào là không cần phân tâm bảo vệ.
Rồi nhân chỗ khỏi lo bảo vệ phần dưới, bà chuyên tâm luyện tập phần trên, do đó, vũ công của bà lợi hại vô cùng, bởi trọn thân hình rút gọn lại còn phân nửa, thì diện tích thọ địch thu hẹp, ít thủ nhiều công, cách luyện tập không cần phải mở rộng, bớt phần phức tạp, nhờ vậy bà tinh tiến rất nhanh, và vũ công của bà như kết tinh lại thành ra bà lợi hại phi thường.
Trên giang hồ có biết bao nhiêu người ái mộ vũ công của bà, ai cũng mơ ước có một vũ công như vậy, nhưng chẳng ai chịu luyện tập theo bà, bởi cái lẽ giản dị nhất là muốn tập như bà, phải chặt đứt đôi chân, mà chặt chân thì hẳn chẳng có ai thích rồi.
Cho nên trước bà, chẳng có ai luyện tập như bà, mà sau bà, cũng chắc là chẳng có.
Đối phó với Vương đại Nương, đáng lý Vương bán Hiệp phải động rất nhiều, nhưng lão lại lấy cái tịnh khắc chế cái động, lấy cái bất biến khắc chế cái biến, kể ra cũng là một thượng sách.
Tuy thân hình bất động, lão đánh ra những chiêu bao hàm một luồng khí bức người, những chiêu thức có lẽ chẳng ai dám dùng trong trường hợp đó, lão lại dùng một cách thản nhiên, như cầm chắc cái thắng trong tay, như xem đối phưong là một tay vô dụng.
Vương đại Nương càng tỏ ra lợi hại, Vương bán Hiệp càng tỏ ra khinh thường, giả sử nhân vật nào ở trong tình thế của lão, hẳn phải cố thủ chứ chẳng dám công, thế mà lão cứ công, dù đối phương công, lão cũng không hóa giải, lão cứ lấy chiêu công nghinh đón chiêu công, chẳng khác nào đổi đòn, đòn ai mạnh, nhanh thì người ấy thắng.
Vương đại Nương dùng trượng hữu đánh xuống, theo chiêu Lôi Tiên kích Trần, đáng lý Vương bán Hiệp phải né đầu qua một bên tránh, nhưng lão bất chấp đầu trượng giáng xuống mạnh hay nhẹ, ngang nhiên đưa tay không lên, theo chiêu Xích Thủ Phước Long nghênh chiến.
Nhưng, Vương đại Nương nửa chừng lại quật đầu trượng trở lên rồi biến sang thức Thiểm Điện Xuyên Vân, điểm vào chín huyệt quanh huyệt chánh tạng huyết dưới nách lão.
Tay không, chẳng ai dám chạm vào vũ khí, vậy mà Vương bán Hiệp nắm tay lại, vận công lực, đánh hất cánh tay trở lên, theo Trực Thượng cửu Tiên, đón đầu trượng.
Nếu Vương đại Nương cứ giữ cái thế đó, dù có điểm trúng vào người Vương bán Hiệp, vẫn không tránh khỏi bị cánh tay đó đánh bật tung bà ta lên không.
Cả hai chiêu đối chiêu, giao đấu cực kỳ ác liệt, cái chết nằm trong đường tơ kẽ tóc.
Bọn đệ tử Nam Cái bang đứng bên ngoài, kinh khiếp đến lặng người, tất cả đều trố mắt ngây người như tượng gỗ, tưởng chừng như nơi đó chẳng một ai nhớ đến cái thở.
Bọn thiếu nữ tuy cười cười nói nói như thường, song nụ cười giọng nói lộ hẳn vẻ miễn cưỡng.
Song phương cùng lo sợ như nhau, chẳng bên nào dám tin tưởng là bên mình nắm chắc phần thắng.
Ngưu thiết Oa tặc lưỡi tán:
- Tuyệt! Vũ công luyện được như thế quả là tuyệt! Nếu mà tôi luyện được như họ, thì dù có chết cũng chẳng ân hận.
Châu Phương mỉm cười:
- Trong thiên hạ chẳng có việc gì khó, cái khó là tại con người không có lòng.
Lão đáp lời Ngưu thiết Oa, nhưng lão lại nhìn Phương bửu Nhi, Phương bửu Nhi cũng đang chăm chú nhìn trận đấu, nhìn say mê như Ngưu thiết Oa.
Châu Phương gọi hắn:
- Bửu nhi! Ngươi nhìn thế mà có nhận thấy chỗ huyền diệu của vũ công do hai người đang thi triển chăng?
Phương bửu Nhi trầm ngâm một chút đoạn từ từ thốt:
- Vương đại thúc tuy thân hình bất động song chiêu thúc đánh ra, bốc rực cuồng khí bức người, cái khí thế đó, phải có từ lúc sanh ra, càng lớn lên càng tăng trưởng, bởi là cái khí thế thiên sanh nên chẳng ai học được, còn Vương đại Nương tuy thân pháp linh hoạt ảo diệu, dù chiêu thức đánh ra có phần mãnh liệt như cuồng phong bạo vũ, song vẫn hàm súc một thực chất nhu nhược.
Châu Phương mỉm cười, gật đầu:
- Phải đó, vũ công của Vương bán Cuồng, do tiên thiên sanh ra còn vũ công của Vương đại Nương thì phần lớn do hậu thiên mà nên. Ngươi còn nhận ra điều chi nữa chăng?
Phương bửu Nhi chớp mắt:
- Trượng bên tả của Vương đại Nương thì xem nhẹ nhàng, trượng bên hữu thì mạnh mẽ, thoạt nhìn vào, có thể là bà ta dùng trượng hữu làm chủ lực nhưng khi đập xuống đất rồi, đầu trượng tả lún sâu, mạnh hơn, còn đầu trượng hữu chỉ phớt qua, nhẹ hơn, như vậy chứng tỏ bà dùng lực dồn cho trượng tả mạnh hơn, mà trượng hữu lại nặng hơn trượng tả...
Rồi hắn dừng lại một chút như để tìm lời thỏa đáng, đoạn tiếp:
- Tôi nhận xét, bà dùng trượng nhẹ là trượng tả đánh mạnh, còn trượng nặng là trượng hữu đánh nhẹ. Nặng làm nhẹ, nhẹ làm nặng, bà muốn tạo một thế công hỗn tạp, nặng nhẹ lẫn lộn, để gây hoang mang cho đối phương, chứ thực sự thì chủ lực của bà phải ở trượng trong tay tả, còn trượng hữu bất quá để bồi bổ thôi, nên đối phương muốn thắng bà, phải chú trọng đến trượng tả, thay vì lưu ý trượng nặng là trượng hữu! Rất tiếc, chừng như Vương đại thúc không nhận ra điều đó!
Châu Phương nhìn hắn, ánh mắt ngời lên vẻ kinh dị, lão thốt:
- Không ngờ ngươi chỉ có ngần ấy tuổi lại không biết về vũ công mà nhận được khuyết điểm của Vương bán Cuồng! Tuy kẻ bàng quan có sáng suốt hơn người trong cuộc, song cũng là điều đáng khen lắm.
Phương bửu Nhi mỉm cười:
- Thì cũng nhờ lão gia giảng giải, rồi nhân nghe giảng giải, tôi tìm hiểu thêm!
Châu Phương gật gù:
- Phải đó! Bây giờ thì ngươi đã thấy, cũng đồng một sự việc, dùng tâm mà nhìn, có khác hơn dùng mắt mà nhìn!
Phương bửu Nhi gật đầu.
Châu Phương buông gọn:
- Thôi mình đi!
Phương bửu Nhi giật mình:
- Đi? Đi trong lúc cuộc chỉến chưa phân định thắng thua?
Châu Phương hừ một tiếng:
- Ở đây mà xem, chờ đến lúc có kẻ thắng người bại, để làm gì chứ?
Dù ai bại ai thắng, cũng chẳng có lợi gì cho chúng ta hơn nào? bằng vào công lực của ta, của ngươi, liệu có giúp gì được cho ai chăng, mà chờ biết thắng bại?
Phương bửu Nhi ấp úng:
- Nhưng...
Châu Phương chặn lời hắn:
- Khi còn sống, Tử y Hầu chẳng khác nào viên ngọc dằn đáy biển, có viên ngọc đó, biển lặng, sóng êm, tuy thực sự thì lão ấy không xuôi ngược giang hồ như lúc thiếu thời, song oai phong của lão vẫn còn hiển hách như mặt nhật đương không, vũ lâm hắc bạch lưỡng đạo chẳng một người nào dám buông lung dã tánh, gây điều cản dở, nhiễu loạn tứ phương. Tất cả đều sợ lão, tất cả đều im hơi bặt tiếng, dù muốn dù không cũng phải sống lương thiện, chẳng dám vọng động. nhờ vậy mà trải qua một thời gian dài giang hồ bình tịnh, vũ lâm thanh bình.
Nhưng...
Lão thở dài thừ người một chút, đoạn tiếp:
- Ngày nay! Ngày nay thì ngọn Thái sơn đã đổ, ngôi Bắc đẩu đã dời, mà những kẻ tạm thời chịu đựng cái tịnh bất đắc dĩ quá lâu, hằng có lúc ước được vươn mình lên như cá kình giỡn sóng, như rồng lên mây, như hổ về rừng, cái lúc đợi chờ mòn mỏi đã đến, sức chịu đựng dồn ứ quá mạnh, khi nổ bùng, phải nổ dữ dội, từ thâm sơn cùng cốc, từ góc biển ven trời, đâu đâu cũng bừng dậy cái khí tương tranh, ai ai cũng quyết sính oai hùng, giang hồ nhiễu động trở lại, vũ lâm đảo lộn phi thường. Ai ai cũng đề cao cảnh giác, ngày đêm phòng bị. Thêm vào đó, một viễn ảnh hãi hùng lởn vởn trước mặt họ, là bảy năm sau người áo trắng trở lại Trung nguyên, khai trường sát kiếp, tận diệt quần hùng, thành ra ai ai cũng nơm nớp lo âu, có thể nói tình thế hiện tại đang cơn hỗn loạn cực đô.....
Lão lại dừng, lão thở dài, rồi kết luận:
Chương trước | Chương sau