Polaroid
Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe


Tác giả:
Đăng ngày: 15-07-2016
Số chương: 23
5 sao 5 / 5 ( 112 đánh giá )

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe - Chương 22

↓↓
Nó ở đó, Mike Martin nói hai giờ sau đó.


- Đâu cơ? đại tá Beatty hỏi với sự tò mò lộ rõ.


- Ở đâu đó


Trong phòng họp ở dưới hành lang từ Hố Đen, Martin đang đứng dựa vào bàn nghiên cứu một bức ảnh về phần đất rộng hơn ở Jeban và dãy Hamreen. Nó chỉ ra một diện tích năm dặm vuông. Anh chỉ vào với đầu ngón tay.

bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


- Những ngôi làng đó, ba ngôi làng - ở đây, ở đây, và ở đây.


- Có chuyện gì với chúng nào?


- Chúng là giả mạo đấy: Được làm thật tuyệt, chúng là những bản sao hoàn hảo của các ngôi làng của nông dân miền núi, nhưng chúng đầy lính gác đấy.


Đại tá Beatty nhìn chằm chằm vào ba ngôi làng. Một cái ở thung lũng cách khoảng giữa ba hòn núi chỉ nửa dặm nằm chính trung tâm khu vực. Hai làng khác ở ngoài rìa xa hơn.


Không ngôi làng nào đủ lớn để có được một nhà thờ; thực tế, chúng quá nhỏ, chỉ hơn một thôn mà thôi. Mỗi cái có kho thóc chính và ở trung tâm để tích trữ cho mùa đông và thức ăn, và những kho nhỏ hơn cho cừu và dê. Khoảng chừng hơn chục túp lều đơn giản tạo nên phần còn lại, những ngôi nhà xây bằng gạch và bùn với thạch hoặc mái tôn theo dạng có thể được nhìn thấy khắp nơi ở vùng núi Trung Đông. Vào mùa hè có thể có những đồng ruộng nhỏ hoặc những ruộng gần đó, nhưng mùa đông thì không.


Cuộc sống vùng núi Iraq rất khắc nghiệt vào mùa đông, với những cơn mưa lạnh giá và mây mù. Khái niệm cho rằng lúc nào ở Trung Đông cũng nóng ấm là sự sai lầm chung xưa nay.


- Tốt thôi, thiếu tá, anh biết nhiều về Iraq. Tôi thì không.


- Thế tại sao chúng là giả mạo?


- Hệ thống trợ giúp cho cuộc sống, Martin nói. Những ngôi làng quá nhỏ, quá nhiều nông dân, quá nhiều dê và cừu. Không đủ thức ăn. Họ sẽ chết đói.


- Mẹ nó chứ, Beatty nổi điên lên. Đơn giản quá.


- Cũng có thể, nhưng nó cho thấy Jericho đã không nói dối, hoặc nhầm lẫn lần nữa. Nếu chúng đã làm vậy, thì tức là chúng đang giấu cái gì đó.


Đại tá Craig, sĩ quan chỉ huy của đội SAS số 22, đã đến chỗ họ từ căn cứ của mình. Anh đang thì thầm nói chuyện với Steve Laing. Bây giờ anh mới tham gia vào câu chuyện.


- Anh nhận ra gì thế, Mike?


- Ở đây đấy, Bruce ạ. Ai đó có khả năng nhìn thấy - từ cách 1000 yard bằng ống nhòm.


- Brass muốn đưa một đội vào đó để đánh dấu. Anh thua rồi.


- Trời ơi, thưa ngài. Những ngọn đồi đó đầy các đội canh phòng. Ông có thể thấy không có đường sá gì cả.


- Thế thì sao? Có thể tránh các đội canh phòng chứ.


- Và thế nếu rơi vào một đội thì sao? Không có ai nói được tiếng Arập như tôi, và ông cũng biết điều đó. Ngoài ra, đó là một HALO. Máy bay trực thăng cũng không làm được gì đâu.


- Anh đã làm mọi thứ anh cần, cho đến giờ tôi có thể nói thế.


- Thật ngớ ngẩn. Tôi chưa từng thấy hành động nào như thế cả. Tôi chán ngán cái việc này rồi. Để tôi làm. Những người khác đã ở sa mạc hàng tuần, trong khi tôi phải đi chăm sóc một khu vườn.


Đại tá Craig nhướng lông mày. Anh đã không hỏi Laing chính xác Martin đã làm gì - anh cũng không muốn nói đến dù là gì đi nữa - nhưng anh đã ngạc nhiên khi một trong những sĩ quan của mình lại phải đi làm người làm vườn.


- Thế thì quay về căn cứ đi. Chúng ta có thể lên kế hoạch tốt hơn ở đó. Nếu tôi có ý tưởng nào, anh có thể thực hiện.


Trước khi trời sáng, tướng Schwarzkopf đã đồng ý không có lựa chọn nào khác và cho sự chuẩn y của mình. Tại cái góc bí mật của căn cứ không quân Riyadh này là chỗ riêng dành cho người của SAS, Martin vạch phác thảo các ý tưởng của mình cho đại tá Craig và đã được chấp thuận để thực hiện.


Sự điều phối của việc lập kế hoạch có thể ở lại với đại tá Craig cho những người trên mặt đất và với tướng Glosson cho vụ tấn công bằng máy bay cuối cùng.


Buster Glosson đã uống cà phê buổi sáng với bạn mình và thượng cấp Chuck Horner.


- Không có ý tưởng nào khác cho đơn vị chúng ta sẽ dùng cho vụ này à? ông ta hỏi.


Tướng Horner nghĩ đến một sĩ quan nào đó hai tuần trước đã khuyên ông làm cái gì đó thật là dữ dội.


- Có chứ, ông nói. Hãy dành cho đội 336.


Mike Martin đã thuyết phục được đại tá Craig khi chỉ ra - một cách lôgic - rằng với phần lớn các lính SAS ở vùng Vịnh đã được sử dụng ở Iraq, anh là sĩ quan cao cấp có khả năng làm được, mà anh là chỉ huy đội B, đội đã từng làm những chiến dịch trong sa mạc dưới sự chỉ huy của người dưới quyền anh, và chỉ một mình anh nói được tiếng Arập trôi chảy.


Nhưng lý luận vững chắc của anh là anh từng được huấn luyện và có kinh nghiệm nhảy dù tự do. Chỉ một cách để vào được vùng núi Iraq một cách bí mật là đi đến vùng HALO - mở dù thật thấp - có nghĩa là ra ngoài máy bay ở độ cao 25.000 fít và rơi tự do và chỉ mở dù khi còn cách mặt đất 3.500 fít. Đó không phải công việc cho những tay mơ.


Việc lập kế hoạch toàn bộ phi vụ phải mất đến một tuần lễ, nhưng không còn thời gian nữa. Giải pháp duy nhất là với nhiều kiểu nhảy dù, đi bộ qua vùng đất, và lựa chọn một vị trí lý tưởng để lên kế hoạch. Với cái đó, Martin cần người anh có thể tin cậy cả cuộc đời mình, đó chính xác là cái anh sẽ làm dù thế nào đi nữa.


Quay trở lại cái góc dành cho SAS ở căn cứ không quân Riyadh, câu hỏi dầu tiên đại tá Craig dành cho anh là:


- Tôi có thể lấy ai?


Danh sách rất ngắn; chỉ là những người từng đi chiến dịch trong sa mạc.


Khi người thượng sĩ có tên trong danh sách, một cái tên nảy ra trong anh.


- Peter Stephenson - chắc chắn.


- Anh may mắn đấy, Craig nói. Anh ta vừa quay trở lại qua biên giới một tuần trước. Đang nghỉ ngơi. Anh ta được đấy


Martin đã biết thượng sĩ Stephenson khi viên trung sĩ còn là một viên đội và anh là đại uý lần đầu tiên đi trong sư đoàn với tư cách một chỉ huy nhóm. Cũng giống như bản thân anh, Stephenson có thể nhảy dù tự do và là một thành viên lính dù của đội anh ta.


- Anh ta tốt đấy, Craig nới. chỉ một cái tên khác. Một người quen đi núi nhé. Tôi cho là anh cần hai người.


Tên được chỉ định là hạ sĩ Ben Eastman.


- Tôi biết anh ta. Anh nói đúng đấy - tôi sẽ lấy anh ta. Ai nữa nào?


Lựa chọn cuối cùng là hạ sĩ Kevin North, từ một dội khác. Martin chưa từng bao giờ đi đánh trận với anh ta, nhưng North là một chuyên gia về núi và được người chỉ huy của anh khuyến khích nên sử dụng.


Có năm địa bàn lập kế hoạch mà anh phải tuần tự hoàn thành. Martin chia ra các nhiệm vụ trong đó anh chịu trách nhiệm chung.


Đầu tiên là lựa chọn máy bay để nhảy dù. Không do dự, Martin chọn chiếc Hercules C-130, máy nhảy thông thường SAS sử dụng, và ở đó đã có chín chiếc phục vụ ở vùng Vịnh. Chúng đều đóng ở gần sân bay quốc tế Vua Khaled. Thậm chí tin tốt hơn đến vào bữa sáng: ba trong số chúng đến từ đội số 47, đóng ở Lyneham ở Wiltshire, một đội đã có nhiều năm kinh nghiệm với các vụ nhảy dù của lính SAS.


Giữa những phi công của ba chiếc Hercules là một trung úy tên là Glyn Morris.


Qua cuộc chiến tranh vùng Vịnh, những chiếc máy bay vận chuyển Hercules đã là một phần trong chiến dịch chuyển hàng hoá đến được Riyadh ở các căn cứ bên ngoài của Không quân Hoàng gia ở Tabuq, Muharraq, Dhahran, và thậm chí Seeb ở Oman. Morris đã từng là người chuyên chở hoặc giám sát hàng hoá, nhưng nhiệm vụ chính thức của anh ở miền này là một PJI, hướng dẫn nhảy dù, và Martin đã từng trước đây nhảy dù dưới sự chỉ dẫn của anh ta.


Ngược hẳn với khái niệm mà Paras và SAS tìm kiếm ở sự nhảy dù của mình, mọi sự nhảy dù quân sự trong các lực lượng quân sự Anh quốc đều diễn ra dưới sự chỉ đạo của RAF, và mối quan hệ được dựa trên niềm tin lẫn nhau khi mà mỗi bên đều biết được chính xác đang làm gì. Người chỉ huy bay Ian Macfadyen, chỉ huy RAF Ở vùng Vịnh, đã ra lệnh cho những chiếc Hercules được chỉ định cho nhiệm vụ của SAS vào lúc nó quay trở về sau chuyến chở hàng từ Tabuq, và bắt đầu chuyển nó cho nhiệm vụ HALO được lên kế hoạch cho cùng đêm hôm đó.


Quan trọng nhất trong số các nhiệm vụ phối hợp là tạo ra một chỗ có ôxi trên sàn của chiếc máy bay chở hàng. Chủ yếu bay ở tầm thấp, chiếc cho đến lúc đó không bao giờ cần ô xi ở đằng sau để giữ cho những người ở trong sống được ở độ cao.


Trung uý phi công Morris không cần chỉ dẫn thêm về công việc anh sẽ làm, và anh dẫn đến một PJI thứ hai từ một chiếc Hercules khác, trung sĩ phi công Sammy Dawlish. Họ đã làm việc cả ngày trên chiếc Hercules và đã xong việc chuẩn bị vào lúc mặt trời xuống.


Ưu tiên thứ hai là chính những chiếc dù. Vào thời điểm đó, SAS chưa từng nhảy dù xuống Iraq - họ đã đến các sa mạc Iraq bằng xe cơ giới - nhưng trong những tuần trước khi chiến tranh thực sự nổ ra, các phi vụ tập luyện được tiến hành đều đặn. Tại căn cứ không quân có một bộ phận trang thiết bị được niêm phong và bảo vệ nghiêm mật, nơi SAS để dù của mình. Martin yêu cầu và được phép lấy tám dù chính và tám cái dự trữ, mặc dù anh và người của mình có thể chỉ cần mỗi người bốn chiếc. Trung sĩ Stephenson cũng được giao nhiệm vụ kiểm tra và đóng gói những cái dù đó trong ngày.


Những chiếc dù không dài hơn loại tròn dính với các đơn vị bay, nhưng với mẫu thiết kế mới hơn được gọi là "vuông". Chúng không thật sự vuông vắn mà thật ra có hình thuôn với hai khay. Trong khi bay, không khí được trượt đi giữa hai khay đó, tạo ra một "cái cánh" tương tự với một phần giao với không khí, cho phép người nhảy dù tự do "bay" chuyến đó xuống như một người nhện, với sự cơ động và khả năng tác hoạt tốt hơn. Chúng là dạng vẫn thường được nhìn thấy trong những màn biểu diễn nhảy dù tự do.


Hai viên đội có nhiệm vụ xem xét và quản lý mọi thứ đồ đạc cần thiết còn lại. Chúng gồm bốn bộ quần áo, bốn túi ngủ lớn của Anh, các chai nước, mũ bảo hiểm, dây đeo, vũ khí, HVC viên đạm - có thể ăn ở mọi nơi - thuốc nổ, đồ dùng sơ cứu... danh sách rất dài. Mỗi người có thể mang theo được 80 pound trong những chiếc túi Bergen đó và có thể cần đến mỗi ounce trong số đó.


Những người sửa chữa và thợ máy làm việc với chiếc Hercules trong một hangar, chuẩn bị thật kỹ máy móc và quan tâm đến từng bộ phận một.


Chỉ huy đội bay đã chỉ định đội nhân viên giỏi nhất của mình mà trong số đó hoa tiêu sẽ đi theo đại tá Craig về Hố Đen để lựa chọn một vùng nhảy dù thích hợp, tức là DZ cực kỳ quan trọng.


Martin được sáu kỹ thuật viên giúp đỡ, bốn người Mỹ và hai người Anh, để sử dụng máy tìm ra mục tiêu, định vị nó trong vài yard vuông, và chuyển thông tin trở về Riyadh. Khi đã kết thúc, các dụng cụ nhiều thứ của anh đã được gói ghém cẩn thận để chống đổ vỡ bất ngờ và được mang đến hangar, nơi hàng núi đồ cho bốn người đang dồn đến. Để tuyệt đối an toàn, mỗi thứ dụng cụ khoa học đều có hai thứ, lại thêm vào trọng lượng một người có thể mang.


Martin đi gặp những người lên kế hoạch ở Hố Đen. Họ cúi lom khom trên một cái bàn rộng trải đầy những bức ảnh mới do một chiếc TR- 1 khác vừa chụp sáng hôm đó. Thời tiết trong sáng, và các bức ảnh cho thấy từng xó xỉnh và hẻm núi một của Jebal và Hamreen.


- Chúng tôi cho là, đại tá Craig nói, cái thứ súng quỷ quái này có thể nằm ở đông nam. Điểm quan sát tốt nhất chính là ở chỗ đó.


Ông chỉ ra một loạt những hẻm núi trong phần núi về phía nam của vùng được cho là Pháo Đài, ngọn đồi ở trung tâm nhóm trong km vuông đã được đại tá Osman Badri xấu số chỉ rõ. Còn với DZ, có một thung lũng nhỏ ở đây, chừng 40 km về phía nam... Anh có thể nhìn thấy nước óng ánh trong một dòng suối chảy xuôi xuống thung lũng.


Martin nhìn. Đó là một sự thấp xuống một chút ở những ngọn đồi, dài 500 yard và rộng khoảng 100, với những sườn dày cộp đầy những tảng đá, và cái rill làm chảy róc rách dòng nước mùa đông của mình dọc theo đáy của dip.


- Đây là chỗ tốt nhất à? Martin hỏi.


Đại tá Craig nhún vai. "Thẳng thắn mà nói, đó là cách của các anh thôi. Cái thứ hai cách mục tiêu tới 70 km cơ. Thì chọn điểm nào gần hơn, để các anh có thể nhìn thấy ngay vùng đất đó."


Trên bản đồ, trong ánh sáng ban ngày, có thể chắc chắn: trong bóng tối dày đặc, sâu xuyên qua không khí lạnh ở tốc độ 120 dặm/giờ, có thể dễ dàng để mất. Có thể không có ánh sáng để hướng lối chúng, không có đèn pha trên mặt đất. Từ bóng tối đến bóng tối.


- Tôi chọn nơi này, anh nói. Người hoa tiêu của RAF đứng thẳng dậy.


- Tốt, tôi sẽ thực hiện.


Người hoa tiêu có một buổi chiều thật bận rộn. Việc của anh ta là tìm ra đường mà không cần tới đèn đóm và đi qua một bầu trời không trăng sao, không hề biết đến chỗ nhảy dù mà phải nhìn từ một điểm trên không trung từ đó, trong tâm trí căng thẳng, bốn thân hình sẽ ra máy bay của anh để đi tìm cái thung lũng bé xíu đó. Ngay cả những thân hình rơi xuống đó cũng chịu sức gió; công việc của anh qua đó sẽ được đánh giá.


Không phải đến mãi buổi đêm tất cả những người này mới gặp nhau lần nữa tại hangar, giờ đây đã bị cấm đối với tất cả những người khác trong căn cứ. Chiếc Hercules đã sẵn sàng, được tiếp nhiên liệu đầy đủ. Dưới một cánh của nó là những thứ đồ đạc mà bốn người có thể cần đến. Tờ mờ sáng, người hướng dẫn của RAF đã gói cẩn thận mỗi cái dù nặng 48 pound như thể chính anh ta sẽ dùng chúng. Stephenson cảm thấy hài lòng.


Trong một góc là một cái bàn rộng. Martin, người đã có được những bức ảnh được phóng to từ Hố Đen, dẫn Stephenson, Eastman, và North đi đến bàn để chỉ rõ con đường họ sẽ đi đến DZ cho những hẻm núi nơi họ dự định sẽ đi sâu vào và nghiên cứu Pháo Đài để biết nó dài bao nhiêu. Dường như đó là 2 đêm đi bộ nặng nề, vào ngày hôm sau. Không nghi ngờ gì nữa khi bước đi trong ánh sáng, và con đường sẽ không thẳng.


Cuối cùng mỗi người gói lại túi Bergen của mình từ dưới đáy, dụng cụ cuối cùng là cái dây lưng, một vòng dây nặng với số có thể được tháo ra sau khi đã chạm đất và đeo vòng quanh cố tay.


Những chiếc hambuger và soda Mỹ được mang đến từ căng tin khi mặt trời xuống, và bốn người nghỉ ngơi cho đến giờ cất cánh. Đã được lên kế hoạch là 9h45, hướng đến một cuộc nhảy dù vào 11h30.


Martin vẫn luôn nghĩ chờ đợi là điều tồi tệ nhất; sau hoạt động tích cực trong ngày hôm đó, dường như đó là một nỗi thất vọng lớn. Không có gì để tập trung vào mà chỉ là sự căng thẳng, cái suy nghĩ nóng nảy rằng dù cho đã kiểm tra như thế và kiểm tra lại như thế, cái gì đó thật thiết yếu vẫn bị bỏ quên. Đó là thời điểm khi một số người ăn, hoặc đọc, hoặc viết thư về nhà, hoặc ngủ lơ mơ, hoặc chỉ đơn giản đi đến phòng vệ sinh để tắm rửa.


Chín giờ một máy kéo đưa chiếc Herculee ra khỏi chỗ để, và đội nhân viên gồm phi công chính, phi công phụ, và kỹ sư bay bắt đầu các cuộc kiểm tra máy móc của mình. 20 phút sau đó, một chiếc xe bus cửa sổ đen ngòm đi vào trong hangar để đưa bốn người và đồ đạc của họ ra máy bay, đang đợi với cửa sau mở rộng và sẵn sàng.


Hai PJI đã sẵn sàng cho họ, với người giám sát và người chỉnh dù. Chỉ có bảy người bước đi và đi vào khoang lớn của Hercules. Các cánh cửa đóng lại. Người chỉnh dù đã quay trở lại xe bus; anh ta có thể không bay cùng với họ.


Cùng những người PJI và người giám sát, bốn người lính đi vào chỗ ngồi của mình ở những chỗ dọc theo tường và đợi. Vào lúc 9h44 tối, chiếc Hercules lăn bánh đi khỏi Riyadh và quay cái mũi màu xám của mình về hướng bắc. Trong khi chiếc máy bay RAF đang lao lên bầu trời đêm ngày 21 tháng Hai đó: một chiếc trực thăng Mỹ đã được yêu cầu nằm ở một chỗ trước khi đến gần với bộ phận Mỹ của căn cứ quân sự.


Nó được gửi tới Al Kharz để đón hai người. Steve Turner, người chỉ huy đội 336 chiến thuật bay, đã được triệu tập lên Riyadh theo lệnh của tướng Buster Blosson. Với ông ta, như đã được ra lệnh, anh ta sẽ mang người mà anh đánh giá là phi công giỏi nhất của mình cho những chuyến bay đánh mặt đất tầm thấp.


Không phải người CO của Rocketeer cũng không phải đại uý Don Walker hiểu được tại sao mình lại được chỉ định. Tại một căn phòng nhỏ dưới đại bản doanh của CENTAF một giờ sau đó, họ được cho biết tại sao, và điều đó là cần thiết. Họ cũng được cho biết không ai khác, với người sĩ quan sử dụng hệ thống vũ khí của Walker, người đã bay cùng anh trên băng ghế sau, dược phép biết đầy đủ các chi tiết.


Rồi họ được máy bay trực thăng chở về lại căn cứ.


Sau khi cất cánh bốn người lính có thể tháo dây an toàn và di chuyển quanh chỗ của đội bay nhờ vào những ánh đèn màu đỏ mờ tối phía trước. Martin đi lên trước, đến cái thang để đến bàn bay, và ngồi một lúc với đội bay. Họ bay ở độ cao 10.000 fít về phía biên giới với Iraq, rồi bắt đầu lên tiếp. Tại độ cao 25.000 fít chiếc Hercules giữ thăng bằng đi thẳng vào lraq, dường như hoàn toàn cô độc trong bầutrời không một vì sao.


Trên thực tế nó không phải ở một mình. Trên Vịnh một chiếc AWACS đã có lệnh giữ yên chỉ nhìn quanh bầu trời gần đó và dưới họ. Nếu một màn hình rađa bất kỳ của Iraq, vì một lý do nào đó không bị không lực Liên quân thổi bay, đột nhiên "phát sáng", nó sẽ bị tấn công ngay lập tức. Để thực hiện điều đó, hai chuyến bay của chiếc Wild Weasels với các tên lửa chống ra đa HARM đang ở dưới.


Trong trường hợp một phi công máy bay chiến đấu nào đó của Iraq đột nhiên bay lên trời trong đêm đó, một chiếc máy bay của RAF Jaguars đã ở phía trên và sẽ lao vào nó ở bên trái, một chiếc F-15C Eagle ở bên phải. Chiếc Hercules đang bay trong một tầm bảo vệ của công nghệ cực kỳ hiện đại Không phi công nào trên bầu trời đêm đó có thể biết tại sao. Họ chỉ biết tuân lệnh.


Trên thực tế, nếu có ai đó ở Iraq nhìn thấy một nhấp nháy nào đó trên rađa đêm đó, thì cũng sẽ nghĩ đó chỉ là một chiếc máy bay chở hàng đang bay về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ. Người chở hàng làm tất cả để những người khách của mình được thoải mái với trà, cà phê, đồ uống nhẹ, và bánh. 40 phút trước khi đến điểm nhảy dù, viên hoa tiêu bật một ngọn đèn báo trước chỉ ra 40 p trừ, và các chuẩn bị cuối cùng được thực hiện.


Bốn người lính đeo dù chính và phụ vào, cái thứ nhất qua vai, cái thứ hai thấp hơn ở sau lưng. Rồi đến những chiếc Bergen, treo ngược ở sau lưng giữa hai cái dù. Vũ khí - một khẩu Heckler giảm thanh và Koch MP5 SD súng bán tự động - được đeo ở hông trái, và bình dưỡng khí cá nhân treo ở thắt lưng.


Cuối cùng họ đeo mũ bảo hiểm và mặt nạ phòng độc trước khi nối dù phụ vào trung tâm, một cấu trúc khung với kích cỡ một cái bàn ăn đầy những chai ô xi. Khi mọi người đã có thể thở được thoải mái, viên phi công được báo và bắt đầu thổi không khí ra ngoài và áp suất bên trong khoang lái trong màn đêm gần như cân bằng giữa hai bên.


Mất khoảng 20 phút. Rồi họ lại ngồi xuống, chờ đợi. 15 phút trước khi đến điểm nhảy dù, một thông điệp nữa lại đến từ bàn bay đến tai người lái. Anh ta nói với các PJI ra hiệu cho những người lính chuyển từ máy ô xi chính sang những cái chai nhỏ riêng của mình. Mỗi người có dự trữ 30 phút, và họ sẽ có thể cần 3 đến 4 phút để có thể nhảy ra.


Vào thời điểm đó chỉ có hoa tiêu trên bàn bay biết được chính xác đang ở đâu; dội SAS đã tin cậy hoàn toàn vào anh ta ở vị trí chính xác.


Khi đó người lái đang liên lạc với những người lính bằng một dòng không ngừng những kí hiệu bằng tay, kết thúc khi anh ta chỉ cả hai tay vào những ngọn đèn trên màn hình. Đến tai anh ta là cả một dòng thác những chỉ dẫn từ người hoa tiêu.


Bốn người đứng lên và bắt dầu di chuyển, chậm chạp, giống như các phi hành gia nặng nề bởi đồ đạc lỉnh kỉnh, ra đến cửa. Các PJI, cũng đang đeo chaỉ ô xi di động, đi cùng với họ. Những người của SAS đứng thành hàng dọc trước cánh cửa hông vẫn còn đóng, mỗi người kiểm tra lại trang thiết bị của mình đang ở trước mặt.

Chương trước | Chương sau

↑↑
Nhà giả kim - Paulo Coelho

Nhà giả kim - Paulo Coelho

Trích đoạn: Fatima "Nếu em là một phần của vận mệnh anh thì sẽ có một

15-07-2016 43 chương
Chỉ tại cái cục mụn

Chỉ tại cái cục mụn

Chỉ tại cái cục mụn  Chỉ từ cách nặn mụn, bạn có thể dự đoán được đối

05-10-2016
 Một vụ mất đồ

Một vụ mất đồ

Tôi sắp phải gặp một người mà tên tuổi, hình dáng, thậm chí người đó là nam hay

28-06-2016
Về nhà, là có mẹ

Về nhà, là có mẹ

(khotruyenhay.gq) Gửi "Chị Linh" của con Xin cho con được gọi Mẹ bằng cái cách gọi thân

27-06-2016
Con gái nhỏ của bố

Con gái nhỏ của bố

- Mẹ nói với bố hộ con nhé! Thật là tồi tệ khi tôi biết mình mang thai ở tuổi

01-07-2016