Pair of Vintage Old School Fru
Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe


Tác giả:
Đăng ngày: 15-07-2016
Số chương: 23
5 sao 5 / 5 ( 107 đánh giá )

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe - Chương 22

↓↓

Vào P-minus -4 cửa hông mở ra, và họ nhìn chằm chằm ra ngoài với không khí ở độ cao 25.000 fít. Một ký hiệu ra bằng tay khác - hai ngón tay do PJI đưa lên - nói với họ rằng họ đang ở P- minus-2. Mọi người lùi ra đến bệ cửa và nhìn vào các ngọn đèn (chưa được bật) ở hai bên. Rồi đèn bật đỏ, lừ lên. Đèn đã chuyển sang xanh...

bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


Cả 4 người quay gót, đứng đối diện vào trong, và nhảy ngược ra, tay chìa ra, mặt cúi gằm. Bậc nhảy lướt qua mặt nạ của họ, và chiếc Hercules bay đi.


Trung sĩ Stephenson dẫn đường. Lấy lại thăng bằng ở vị trí của mình, họ nhảy vào trong bầu trời đêm từ năm dặm không một tiếng động. Tại độ cao 3.500 fít những áp suất tự động đã mở túi dù, và nó bay ra ngoài. Ở vị trí thứ hai, Mike Martin nhìn thấy cái bóng 15 fít dưới anh đã ngừng không chuyển động. Cùng giây phút đó anh cảm thấy sự rung lên của cú mở dù của mình, rồi chiếc dù "vuông" sững lên và anh chuyển từ tốc độ 120 dặm/giờ sang còn 14, với những loại máy hãm để không bị sốc mạnh.


Còn 1.000 fít mỗi người đóng lại khoá đang giữ Bergen ở lưng họ và trượt xuống chân, nó nơi dính vào chân họ. Những chiếc Bergen sẽ ở đó trên suốt đường bay xuống, để có thể mở rộng đúng lúc.


Dù của viên trung sĩ đi vượt qua Martin ở bên tay phải, nên anh phải đi theo. Bầu trời trong sáng, những vì sao nhìn rõ, những mảng núi đen thẫm hiện lên ở mọi hướng. Rồi Martin nhìn thấy cái viên trung sĩ đã nhìn thấy: sự lấp lánh của dòng nước trong dòng suối đang chảy xuôi thung lũng.


Peter Stephenson bay xuống bên phải ớ trung tâm vùng đất, vài yard cách bờ suối, trên cỏ mềm và ấm. Martin vứt chiếc Bergen của mình theo hướng đó, dừng lại trong không trung, cảm thấy chiếc Bergen chạm đất ngay bên dưới mình, và đã đứng được thẳng trên hai chân.


Hạ sĩ Eastman ở phía sau và bên trên anh, quay ra, trượt xuống, và trượt đến cách 50 yard. Martin đã cởi dây dù của mình và không nhìn thấy Kevin North cũng đã đáp xuống đất. Trên thực tế, anh chàng người miền núi là người thứ tư và cũng là cuối cùng chạm mặt đất, xa hơn khoảng 100 yard nhưng rơi xuống lưng chừng đồi chứ không phải lên cỏ. Anh cố gắng lại gần đồng đội của mình, giữ thăng bằng, khi chiếc Bergen ở dưới anh đã chạm đất. Khi nó rơi xuống đến đất, chiếc Bergen rơi ra xa kéo tuột người đang bay ở trên mà cổ tay đang buộc vào nó. Nó lăn dọc theo sườn đồi năm yard, rồi mắc vào giữa hai tảng đá. Việc đột ngột đó kéo North lao thẳng xuống và rơi nghiêng nên anh không chạm đất bằng chân mà bằng vai. Trên sườn đồi không có nhiều đá lắm nhưng một trong số chúng đã làm xước hông bên phải của anh tám chỗ.


Viên hạ sĩ cảm thấy rõ ràng xương của mình kêu lạo xạo, anh đau mất đến vài giây. Rồi rơi vào dòng nước. Anh lăn ra và nắm chặt lấy dây, thầm thì luôn miệng: không, không, cầu Chúa, không.


Dù không nhận ra bởi vì diễn ra bên trong chân, anh bắt đầu thấy mình bị chảy máu. Một trong số xương trong hệ thống chằng chịt đã gãy lòi ra ngoài động mạch, chảy máu đầm đìa. Ba người khác tìm thấy anh sau đó một phút. Tất cả đã cởi được dù và Bergen. Khi họ nhận ra anh không có ở đó, họ đi tìm. Stephenson lấy chiếc đèn pin nhỏ xíu của mình ra và chĩa vào cái chân.


- Ôi mẹ kiếp. anh thì thầm. họ có các dụng cụ sơ cứu, kể cả băng bó, nhưng không thể làm việc với chỗ bị thương này. Viên hạ sĩ cần có liệu pháp chống đau, huyết thanh, được phẫu thuật - và thật nhanh. Stephenson chạy lại chỗ chiếc Bergen của North, lôi ra dụng cụ sơ cứu, và bắt đầu chuẩn bị một liều moocphin. Không cần thiết nữa. Với máu chảy ra, chỗ đau đã tồi tệ đi nhiều.


North mở mắt, nhìn vào khuôn mặt Mike Martin đang ở phía trên anh, thì thầm: "Tôi xin lỗi, thưa chỉ huy" và lại nhắm mắt. Hai phút sau anh tắt thở.


Vào lúc khác và ở chỗ khác, :Martin có thể đã biểu lộ một số cảm xúc anh cảm thấy khi mất đi một người như North, đang dưới quyền chỉ huy của anh. Nhưng lúc này không có thời gian, và cũng không phải chỗ. Hai người NCO còn lại nhận ra điều đó và làm điều họ phải làm trong sự im lặng sầu thảm. Sự thương tiếc dành cho sau này.


Martin đã từng hy vọng thu dọn dù và đi qua được thung lũng trước khi tìm thấy một cái động đá để chôn đồ đạc còn thừa lại Giờ thì không thể được nữa. Còn phải giải quyết vấn đề cái xác của North.


- Pete, bắt đầu tập hợp tất cả những gì chúng ta phải chôn đi Tìm một cái hố ở đâu đó, hoặc là đào đi. Còn Ben, hãy nhặt đá đi


Martin cúi xuống cái xác, lấy đi các nhãn hiệu và khẩu súng, rồi đến giúp Eastman. Cùng nhau, với dao găm và tay, ba người đào một cái hố dài và để cái xác vào đó. Ở trên còn phải chôn thêm bốn cái dù chính vẫn còn mở, bốn túi đồ ăn, bốn chai dưỡng khí, rồi các thứ đồ khác nữa. Rồi họ bắt đầu chèn đá lên trên, không phải khít vào nhau mà xếp theo kiểu tình cờ, như thể chúng mới rơi từ trên núi xuống. Nước được mang đến từ mách nước để tưới lên đá và cỏ. Lối đá rơi được vạch ra bằng chân, và các mảnh rêu từ bờ nước được gắn lại. Thung lũng được làm sao cho vẫn giống hệt như nóđã từng như thế một giờ trước khi nửa đêm.


Họ hy vọng có thể đi bộ năm tiếng trước khi trời sáng, nhưng công việc chôn cất đã tốn mất ba tiếng. Một số đồ trong túi Bergen của North vẫn được để lại ở trong và được chôn cùng anh ta: quần áo, đồ ăn, nước uống. Các thứ đồ khác họ phải chia ra để mang, làm cho đồ của mỗi người lại nặng thêm.


Một giờ trước khi trời sáng, họ rời thung lũng và đi vào SOP - quá trình chiến dịch tĩnh. Trung sĩ Stephenson lĩnh trách nhiệm dẫn đường, đi trước hai người còn lại, đến được vùng đất trước và làm các biện pháp để không bị tấn công bất chợt từ bên sườn.


Con đường mỗi lúc một dốc hơn, và anh phải dằn bước chân. Mặc dù là một người nhỏ bé và có phần hơi mảnh, lại hơn Martin đến năm tuổi, nhưng anh vẫn có thể đi bộ rất nhanh và còn gánh theo 80 pound trong khi đi.


Mây bay tới từ các đỉnh núi đúng vào lúc Martin cần chúng, để làm chậm bình minh và cho anh thêm một tiếng đồng hồ nữa. Trong 90 phút đi bộ nặng nhọc họ đi được tám dặm, đi qua nhiều đèo và hai ngọn đồi giữa chúng và cái thung lũng. Cuối cùng một ánh sáng nhợt nhạt cũng hiện ra buộc họ phải tìm một chỗ để trú chân.


Martin chọn một hẻm khuất trong các tảng đá dưới một đoạn nối, có cỏ rậm che phủ và ngay ở trên một wadi khô ráo. Trong bóng tối còn lại họ ăn một vài viên đạm, uống nước, đắp chăn lên người và nằm dài ra ngủ. Có ba phiên thức canh và phiên thứ nhất thuộc về Martin.


Anh đánh thức Stephenson vào lúc 11 giờ sáng và ngủ trong khi viên trung sĩ thức gác. Bốn giờ chiều đến lượt Ben Eastman khều Martin dậy. Khi thiếu tá mở mắt, anh nhìn thấy Eastman đang đưa tay lên môi. Martin lắng nghe. Từ wadi 10 fít phía dưới vọng lên những tiếng nói âm họng bằng tiếng Arập.


Trung sĩ Stephenson cũng tỉnh dậy và nhướng lông mày.Phải làm gì bây giờ? Martin lắng nghe thêm một lúc. Có bốn người ở đó, đang đi gác, đang chán ngán công việc cứ suốt ngày phải đi lên núi, và đã mệt mỏi. Sau 10 phút anh hiểu bọn họ sẽ cắm trại ngủ ở đây cả đêm.


Vậy là anh đã mất thời gian. Anh cần đi vào lúc sáu giờ, khi bóng tối phủ xuống các ngọn đồi, và anh cần từng giờ để có thể vượt qua những dặm dường để đến được các hẻm đá đó trên đồi qua thung lũng từ Pháo Đài. Anh có thể cần nhiều thời gian hơn để tìm ra các hẻm núi đó.


Cuộc trò chuyện từ wadi phía dưới cho thấy toán lính Iraq đang đi tìm củi để đốt lửa trại. Rất có thể chúng sẽ chú ý đến những bụi cây sau đó người của SAS đang nằm. Ngay cả khi chúng không làm vậy, thì cũng phải mất hàng giờ chúng mới ngủ say để đội của Martin có thể rón rén đi qua. Không còn lựa chọn nào khác.


Theo một tín hiệu từ Martin, hai người còn lại nằm dán người xuống, mở dao ra, và ba người trườn thẳng xuống wadi bên dưới.


Khi đã xong việc, Martin nhìn vào những quyển sổ của toán lính Iraq xấu số. Tất cả trong số đó, anh nhận ra, có Al- Ubaidi. Tất cả đều thuộc bộ lạc Ubaidi, những người miền núi. Tất cả đều có dấu của Đội Vệ binh Cộng hoà. Rõ ràng Đội Vệ binh được tuyển từ những người lính miền núi để tạo thành các đội tuần tra công việc là bảo vệ Pháo Đài an toàn khỏi những kẻ đột nhập. Cũng phải mất một giờ đồng hồ để nhét bốn cái xác vào khe núi, cắt lều nguỵ trang của họ, và phủ lên đó các cây bụi, cỏ dại. Nhưng khi họ đã làm xong, họ thấy vẫn rất dễ để nhận ra. Thật may mắn, đội tuần tra Iraq không được trang bị máy bộ đàm, nên không thể kiểm tra từ căn cứ cho đến khi họ quay trở về - bất kỳ lúc nào. Bây giờ, họ không bao giờ có thể trở về được nữa, nhưng với may mắn có thể là hai ngày trước khi họ bị quên đi.


Khi bóng tối đã buông xuống, những người SAS lại đi, định vị bằng cách dựa vào bóng các đỉnh núi trong ảnh, đi theo địa bàn về phía ngọn núi họ đang tìm kiếm. Tấm bản đồ Martin mang theo có độ phân giải rất cao, do một máy tính vẽ dựa trên các tấm ảnh chụp từ trên không do TR-l cung cấp và chỉ ra con đường giữa DZ và vị trí cần đến. Thỉnh thoảng dừng lại để xem máy định vị SATNAV đeo trên tay và nghiên cứu bản đồ bằng đèn pin, Martin có thể kiểm tra hướng đi và tiến triển của mình. Quãng nửa đêm, cả hai đều vẫn tốt. Anh cho rằng còn phải đi thêm mười dặm nữa.


Tại Brecons ở W!ales, Martin và người của mình đã có thể đi bốn dặm một giờ trên kiểu địa hình này, một cuộc đi bộ nặng nhọc trên một mặt đất phẳng mang theo chó chứ không phải 80 pound hành lý thế này. Đi bộ theo tốc độ này là bình thường. Nhưng trên những ngọn đồi thù địch này, với khả năng có các đội tuần tra bao quanh họ, không thể đi nhanh như thế được.


Họ đã va phải quân Iraq một lần, và hai lần sẽ là quá nhiều. Một lợi thế của họ so với quân Iraq là những chiếc máy NVG, những chiếc máy dò đường khi đi đêm khiến họ nhìn rõ hơn ở phía trước. Với mẫu mới mở góc rộng họ có thể nhìn thấy toàn bộ cảnh vật phía trước trong một thứ ánh sáng màu xanh nhạt; nó chạy dựa trên nguyên tắc thu thập mọi tia ánh sáng tự nhiên trong không khí và tập trung nó lại.


Hai giờ trước khi trời sáng, họ nhìn thấy hình dáng của Pháo Đài ở trước mặt và bắt đấu trườn sang bên trái. Ngọn núi họ đã chọn nằm trên rìa của km vuông do Jericho cung cấp, và từ các khe núi gần đỉnh họ có thể nhìn qua xuống mặt phía nam của Pháo Đài - nếu quả thật đó là Pháo Đài - gần như rõ ràng hoàn toàn.


Họ trườn một cách khó nhọc trong một tiếng đồng hồ, hơi thở của họ đã trở nên gấp gáp. Trung sĩ Stephenson đi đầu tắt đường bằng một lối đi của dê dẫn lên phía trên và vòng quanh đỉnh núi. Ngay khi sắp tới đỉnh núi, họ nhìn thấy cái khe mà TR- 1 đã nhìn thấy từ chiếc camera chĩa xuống và vòng quanh của nó. Tốt hơn là Martin có thể hy vọng - một mỏm đá tự nhiên dài tám fít, sâu bốn fít, và cao hai fit. Bên ngoài mỏm là một gờ đá cách hai fit, trên đó Martin có thể nằm lên với nửa người dưới và bên trong các tảng đá.


Mọi người lấy ra chăn của mình bắt đầu làm cho mình một cái tổ không thể nhìn thấy được từ bên ngoài. Đồ ăn và đồ uống được chứa trong các túi nhỏ gài vào dây lưng, trang thiết bị kỹ thuật của Martin đã sẵn sàng, vũ khí được kiểm tra và để ngay gần. Ngay trước khi mặt trời lên, Martin sử dụng một trong số các thiết bị của mình. Đó là một cái máy phát, nhỏ hơn rất nhiều so với cái máy anh đã dùng ở Baghdad, chỉ bằng kích thước hai bao thuốc lá. Nó có gắn một cục pin Cadmium-niken với đủ năng lượng cho phép anh nhiều thời gian để nói hơn anh cần nhiều.


Tần số đã được cố định, và ở đầu bên kia có một đồng hồ nghe chạy 24 giờ một ngày. Để thu hút sự chú ý anh ấn vào nút chuyển tin theo một chuỗi những tiếng bip và dừng, rồi đợi người bên kia trả lời chuỗi tín hiệu hỏi đó.


Bộ phận thứ ba của bộ máy đó là một cái đĩa không gian, một cái có thể gập vào được giống như cái ở Baghdad nhưng nhỏ hơn. Dù bây giờ anh đã ở xa hơn về phía bắc hơn hồi ở thủ đô Iraq, nhưng đồng thời anh cũng ở cao hơn.


Martin dựng cái đĩa lên, hướng về phía nam, nối pin vào máy và máy vào cái đĩa, rồi ấn nút chuyển tin. l-2-3-4-5; dừng 1 2-3; dừng; 1; dừng, 1.


Năm giây sau, chiếc đài trong tay anh rung lên nhè nhẹ, bốn tiếng bip, bốn tiếng bip, rồi hai. Anh bấm nút chuyển, giữ ngón tay, và nói vào ống nói:


- Nineveh đến đây, Tyre đến đây. Tôi nói lại. Nineveh đến đây, Tyre đến đây.


Anh thả nút bấm và đợi. Chiếc máy vang ra những tiếng l-2-3; dừng; l; dừng; 4. Đã nhận và đã nhận ra.


Martin đậy cái máy vào vỏ chống nước của nó, đeo đôi kính của mình, và co người lại. Sau anh trung sĩ Stephenson và , hạ sĩ Eastman đang bọc kín người vào khe núi dưới tảng đá, nhưng khá là thoải mái. Hai người chìa chăn ra trước mặt anh, tạo thành chỗ để anh đưa ống nhòm vào, bằng cách đó anh có thể nhìn rất rõ.


Khi mặt trời đang lên trên những đỉnh núi Hamreen ; vào buổi sáng ngày 22 tháng Hai, thiếu tá Martin bắt đầu 1 nghiên cứu kiệt tác của người bạn cùng trường Osman Badri , công trình Qu'ala mà không một loại máy nào có thể phát hiện. :


Tại Riyadh, Steve Laing và Simon Paxman đang nhìn chằm chằm vào tờ giấy mà người kỹ sư đưa cho họ đã chạy ra từ trong máy radio.


- Mẹ kiếp, Laing nói run lên vì xúc động - anh ta đang ở trong vùng núi đó rồi.


20 phút sau, tin đã đến được Al Kharz từ văn phòng của tướng Glosson.


Đại uý Don Walker đã trở về căn cứ của mình vào lúc sáng sớm ngày 22, ngủ lại giấc đã mất hồi đêm, và làm việc ngay sau khi mặt trời lên, khi các phi công đã bay các phi vụ trong đêm vẫn còn đang đều đều thở trong giấc ngủ chập chờn. Khoảng trưa, anh đã có một bản kế hoạch để trình lên các sĩ quan thượng cấp của mình. Nó được gửi ngay lập tức tới Riyadh và đựợc thông qua. Trong buổi chiều các loại máy bay, phi hành gia, và các dịch vụ phụ trợ đã được ấn định.


Bản kế hoạch gồm cuộc tấn công gồm bốn máy bay vào một căn cứ quân sự Iraq về phía bắc Baghdad tên là Đông Tikrit, không xa nơi sinh của Saddam Hussein là bao. Có thể là một cuộc tấn công ban đêm với những quả bom 2000 pound có laser hướng lối. Don Walker có thể chỉ huy chiến dịch, với người bay cùng quen thuộc và một đội gồm hai máy bay Eagle khác.


Thật kỳ diệu phi vụ đã có mặt ở Lệnh chiến dịch bay từ Riyadh, mặc dù nó mới chỉ mới được báo 12 giờ và chưa đến ba ngày trước đó.


Ba người nữa cần cho đội bay đã được mang đến ngay lập tức cho mỗi lần làm nhiệm vụ và được chỉ định cho chiến dịch Đông Tikrit, được sẵn sàng vào đêm ngày 22 (có thể) hoặc bất kỳ đêm nào khác họ được lệnh. Cho đến lúc đó, họ vẫn thường trực đợi lệnh.


Bốn chiếc Eagle được chuẩn bị vào lúc hoàng hôn ngày 22 buông xuống, và vào 10 giờ đêm phi vụ được huỷ. Không có phi vụ nào thay thế. Tám người bay được lệnh về nghỉ, trong khi người còn lại của đội bay đi đến đánh xe tăng của Đội vệ binh Cộng hoà ở miền bắc Kuwait. Khi họ quay về vào lúc bình minh ngày 23, bốn người bay chưa phải làm gì đến lượt mình.


Với nhân viên lên kế hoạch phi vụ, một lộ trình đã được lập cho Đông Tikrit có thể cần đến bốn chiếc Eagle bay đến hành lang giữa biên giới Baghdad và Iran về phía đông, với một đường vòng qua 45 độ qua hồ As Sa'diyah và rồi bay thẳng về tây bắc đến Tikrit.


Khi đã uống xong cà phê buổi sáng ở sảnh, Don Walker được triệu tập ra ngoài bởi người chỉ huy đội của mình. Mục tiêu của anh đã có rồi đấy, anh ta nói. Nghĩ một lát đi Đêm nay sẽ mệt đấy.


Khi mặt trời đang lên, Mike Martin bắt đầu nghiên cứu vùng núi qua cái thung lũng dốc. Anh nhìn rất rõ qua ống nhòm những bụi cây cá nhân; lùi lại, anh có thể nhìn thấy một vùng với kích thước bao nhiêu cũng được tuỳ anh muốn. Trong giờ đầu tiên trông nó chẳng khác gì một quả núi thực thụ. Cỏ mọc khắp nơi. Đầy những bụi cây bụi cỏ, ở phần còn lại. Đây đó một đường mòn trên đá trần, đôi khi một chỗ ngoặt, khá dốc. Cũng giống như mọi ngọn đồi trong tầm nhìn của anh, nó có hình dáng không đều đặn. Có vẻ như chẳng có gì đặc biệt hết cả.Đôi khi anh nhìn thật sát mắt vào để cho mắt nghỉ, dựa đầu vào tay một lúc, và lại bắt đầu tiếp tục.


Khoảng giữa buổi sáng, một phần bắt đầu nổi lên. Tại một số phần của ngọn núi có vẻ mọc lên với một tốc độ khác hẳn với những phần khác. Có những nơi cây cỏ dường như quá ư đều đặn, như được trồng thành hàng lối. Nhưng không hề có cửa, trừ phi ở bên kia, không đường sá, không lối đi với vết lốp xe ôtô, không có ống dẫn không khí cho bên trong, không hề có dấu hiệu gì động đậy hết. Chỉ có mặt trời đang lên mới cung cấp được một đầu mối đầu tiên.


Ngay sau 11 giờ, anh nghĩ mình đã bắt gặp được cái gì đó ánh lên trong đám cỏ. Anh lùi cặp kính lại sau đến con đường đó và chỉnh thật rõ. Mặt trời đang ở sau một đám mây. Khi hiện ra: cái đó lại lấp lánh.


Rồi anh nhìn ra: một mảnh dây thép nằm trên cỏ. Anh nháy mắt và thử lại lần nữa. Vẫn thế, nó có kích thước một cái dây dài chừng một foot nằm trong cỏ. Đó là một phần của một cái dây dài, một cái dây có bọc nhựa màu xanh ở bên ngoài, hoặc là một phần nhỏ đã lộ ra có kim loại ở bên trong.


Cái dây là một trong nhiều cái anh liếc thấy, tất cả đều được chôn trong cỏ, đôi khi nổi lên khi gió thổi các thân cỏ từ bên này sang bên kia. Chéo góc từ góc nhìn đối diện, một đoạn dây kim loại dài đang nằm dưới cỏ.


Lúc giữa trưa, anh có thể nhìn thấy rõ hơn. Một phần sườn núi khi sợi dây màu xanh đã lộ ra trên mặt đất; cỏ và các bụi cây được mọc lên những khoảng cách như viên kim cương giữa nhau, mọc qua các lỗ, phủ lên cái dây nằm bên dưới. Rồi anh nhìn thấy ở dưới. Một phần của sườn núi toàn đá, khá rõ, mỗi cái cách cái ở dưới chừng ba inch. Giữa các mảnh nằm ngang được tạo ra là những dòng suối nhỏ phủ đầy cây bụi. Nơi chúng nổi lên, chúng trở thành những đường nằm ngang. Thoạt tiên nó trông không giống như thế, bởi vì chúng có độ nặng khác, nhưng khi anh nghiên cứu độc nhất các thân cây, rõ ràng là chúng quả thực nằm trong các sợi dây. Thiên nhiên không bao giờ cho cái gì mọc thẳng.


Anh lại thử các phần khác của ngọn núi, nhưng không còn thấy thế nữa, rồi bắt đầu lại xa hơn về bên trái. Mãi đến đầu giờ chiều anh mới thấy được.


Các nhà phân tích của Riyadh đã đúng - với một điểm. Bất kỳ ai có ý định đánh giá toàn bộ trung tâm ngọn đồi, họ sẽ thất bại. Bất kỳ ai thực hiện nó sẽ phải xem xét đến ba ngọn đồi, cắt ra các mặt bên trong, và dựng lên những khoảng cách giữa các đỉnh để tạo ra một miệng núi lửa khổng lồ.


Khi nối lại các khoảng cách, người xây dựng đã theo vùng phụ cận của các ngọn đồi thật sự, đi qua các tảng đá thật nằm lùi lại và lên trên, tạo ra những vùng nhỏ, gồm hàng chục nghìn tấn đất đá từ bên trên đổ xuống.


Lớp sơn phủ hẳn là phải nằm sau: các mảnh kim loại màu xanh đã được chôn dưới mặt đất. Cỏ được gieo khắp nơi trên mặt đất, có rễ và lan xa, với các bụi cây và bụi cỏ nằm sâu hơn bị bỏ quên trong các vùng thật sự. Cỏ từ mùa hè trước đã mọc lên, tạo ra mạng lưới rễ cây riêng của mình, và các bụi cỏ đã lan ra mọc lên trên các sợi dây và cỏ đã mọc xuống trên những ngọn đồi nguyên thuỷ.


Trên cái miệng núi lửa, nóc của pháo đài rõ ràng là có hình vòm, thế nên phải gồm đến hàng nghìn túi cỏ. Thậm chí còn có các cái nhân tạo, được vẽ theo màu sắc của những tảng đá thật sự, với những đỉnh nơi mưa có thể rơi xuống. Martin bắt đầu tập trung vào vùng gần điểm nơi đáy của miệng núi lửa có thể là một khoảng không gian kín có mái vòm.Khoảng 50 fit dưới đỉnh vòm anh tìm thấy cái phải tìm.


Anh đã cho ống nhòm của mình trượt đi trượt lại đến 50 lần và không hề nhìn thấy. Đó là một chóp đá, màu ghi nhạt, nhưng có hai đường màu đen chạy qua từ bên này sang bên kia. Càng xem xét các đường kỹ hơn, anh càng phải tự hỏi tại sao ai đó lại có thể lên cao đến thế để vẽ hai cái đường thẳng đi qua một tảng đá mòn.


Một làn gió từ phía đông bắc thổi đến, thổi đến gần mặt anh. Cũng ngọn gió đó làm một trong những đường thẳng chuyển động. Khi gió đã dừng, các đường thẳng cũng thôi không chuyển động nữa. Rồi Martin nhận ra chúng không được vẽ thành những đường thẳng mà thực chất là những đường dây bằng thép, chạy qua tảng đá và đi vào trong cỏ. Các tảng đá nhỏ hơn nằm quanh chu vi của cái lớn, giống như các trạm gác vòng quanh. Tại sao nó lại tròn thế, tại sao lại có dây thép? Cứ cho là có ai đó, ở phía dưới đã ném lên những sợi dây đó - vậy thì tại sao tảng đá lại có thể chuyễn động?


Đến ba giờ rưỡi thì anh nhận ra đó không phải là một tảng đá. Đó là một tấm vải nhựa màu ghi, được những tảng đá chặn xuống: được gắn kết vào một bên sườn khi các sợi dây kim loại bị ném xuống phía dưới vào trong cái hang ngầm bên dưới.


Dưới tấm vải anh dần nhận ra một hình dáng, đều đặn, chu vi 5 fít. Anh nhìn chằm chằm vào một tấm vải, bên dưới đó, mà anh không thể thấy, ba fít cuối của khẩu súng Babylon, từ đó nòng súng dài 200 yard nằm bên trong miệng núi lửa đang chìa lên trời cao. Nó chỉ xuống đông nam về phía Dhahran, cách 750 km.


- Têlêmét, anh thì thầm với các đồng đội đang ở phía dưới.


Anh đưa cái ống nhòm lại và cầm lấy một cái ống khác. Nó giống như một kính thiên văn. Khi đặt nó vào trong mắt, như người ta đã dạy tại Riyadh, anh nhìn thấy ngọn núi và tấm bạt đang giấu khẩu súng, nhưng không hề rõ ràng.


Trên thấu kính là các dấu hiệu hình chữ V, các điểm đều được hướng vào bên trong. Chầm chậm anh quay cái núm trên đỉnh cho đến khi 4 điểm chụm lại thành một. Cái hình chữ thập nằm lại trên tấm bạt.


Bỏ cái hình cầu ra khỏi mắt, anh nhìn vào các số trên dải băng quay. 1080 yard.


- Compa, anh nói. Anh đưa cái têlêmét ra sau và cầm lấy cái la bàn điện tử. Đó không phải là một thiết bị phụ thuộc vào một cái đĩa xoay trong một cái bát cồn, cũng không phải là một cái chỉ cân đối trên một khớp cadăng. Anh để nó lên mắt, nhìn vào tấm bạt qua thung lũng, và ấn nút. Cái la bàn làm việc còn lại, cho anh một toạ độ từ điểm anh đứng đến tấm bạt là 348 độ, 10 phút, và 18 giây.Máy định vị SARNAV cho anh nhìn thấy điều cuối cùng anh cần - địa điểm chính xác của anh lúc này trên bề mặt trái đất, với diện tích gần nhất 15 yard vuông.


Thật là một công việc tỉ mỉ để cố dựng lên cái đĩa vệ tinh trong một không gian hẹp - mất đến 10 phút. Khi anh gọi Riyadh, câu trả lời đến ngay lập tức. Chầm chậm Martin đọc cho những người nghe ở thủ đô nước Arập Xêut ba loại số liệu: vị trí chính xác của anh, hướng của la bàn từ chỗ anh đến mục tiêu, và tầm bắn. Riyadh có thể tính toán phần còn lại và cung cấp cho phi công các dữ liệu.Martin quay trở lại mỏm đá, đã được Stephenson thay thế, người có thể canh chừng các toán kiểm tra của quân Iraq, và cố ngủ.


Vào lúc tám giờ rưỡi, trong bóng đêm hoàn toàn, Martin kiểm tra bằng máy phát tia hồng ngoại. Vẻ ngoài nó giống một ngọn đèn lớn với một nút bấm hoạt động theo nguyên tắc pitxtông, nhưng có lỗ nhỏ ở đằng sau để nhìn. Anh lắp pin, hướng về phía Pháo Đài, và nhìn. Toàn bộ ngọn núi đã rõ ràng như thể được tắm trong ánh trăng xanh ngắt. Anh nâng lên đến tấm bạt được nguỵ trang cái nòng của khẩu Babylon và siết chặt nút bấm.


Một làn ánh sáng đơn độc, không thể nhìn thấy đang lướt qua thung lũng, và anh nhìn thấy một đốm đỏ rất nhỏ xuất hiện ở sườn núi. Chuyển sang nhìn ban đêm, anh chĩa đốm đỏ lên tấm bạt và giữ ở đó chừng nửa phút. Hài lòng, anh tắt nó đi và chui lại vào trong chăn.


Bốn chiếc Eagle cất cánh từ Al Kharz vào lúc 10 giờ 45 phút tối và nhanh chóng đạt độ cao 20000 fít. Với ba trong số bốn đội bay, họ chỉ biết đó vẫn chỉ là một phi vụ đánh một căn cứ không quân Iraq thông thường. Mỗi chiếc Eagle đều mang theo những quả bom 2000 pound có laser hướng lối, thêm vào những quả hoả tiễn không đối không để tự vệ.


Tiếp nhiên liệu từ chiếc KC-10 ngay ở nam biên giới lraq là bình thường chẳng có gì to tát. Khi họ đã lên cao, họ bay theo đội hình mở rộng, và chuyến bay, với mật danh Bluejay, đi chủ yếu về hướng nam,  đi qua thành phố As-Samawah của Iraq vào lúc 11h14.


Họ bay mà không hề trò chuyện với nhau và cũng không bật đèn, mỗi wizzo đều có thể nhìn thấy rất rõ ràng ba cái còn lại trên ra đa của mình. Đêm trong, và chiếc AWACS trên vùng Vịnh đã cung cấp cho họ như chỉ dẫn "ảnh rõ", có nghĩa là không có máy bay chiến đấu nào của Iraq đang bay trên trời. 11h39, người wizzo của Don Walker thì thầm:


- Điểm rẽ trong năm phút nữa.


Tất cả đều nghe thấy và hiểu họ có thể sẽ quay trở lại trên hồ As Sa'diyah trong năm phút nữa.


Ngay khi họ vừa thực hiện đường lượn 45 độ ra cảng để hướng về đông Tikrit, ba đội còn lại nghe thấy Don Walker nói rất rõ:


- Bluejay Dẫn đầu đội bay... trục trặc động cơ. Tôi sẽ đến RTB. Bluejay, nghe chưa.


Blueiay là Bull Baker đêm đó, dẫn đầu trong số hai máy bay thành phần. Từ đó trở đi, mọi việc bắt đầu diễn ra theo chiều hướng xấu, theo một cung cách thật lệch lạc.


Người bay cùng Walker, Randy "R-2" Roberts ở ngay cạnh máy bay dẫn đầu nhưng có thể thấy không có vấn đề rắc rối nào bề ngoài từ động cơ của Walker, như thể chỉ huy Bluejay hết nhiên liệu và độ cao. Nếu anh ta đi RTB - quay về căn cứ - thì cũng là bình thường khi người bay cùng về theo anh ta, trừ khi vấn đề chỉ nhỏ nhặt thôi. Trục trặc động cơ trên lãnh thổ kẻ thù thì không thể là nhỏ nhặt được.


- Roger này, Baker nhận ra. Rồi họ nghe thấy Walker nói:- Bluejay 2, quay lại đi cùng với Bluejay 3. Tôi nhắc lại, quay lại đi, lệnh đấy. Tiếp tục đến đông Tikrit đi.


Người cùng bay, giật mình, làm theo lệnh và lao lên để gặp lại đội Bluejay. Chỉ huy của họ vẫn tiếp tục hạ thấp độ cao xuống hồ; họ có thể thấy anh trong rađa của mình.


Cùng lúc đó họ nhận ra anh đã làm điều không thể nghĩ được Vì một lý do nào đó - có thể là rối trí vì bị hỏng động cơ – anh không hề nói bằng điện đàm Have-quick có mã hoá, mà "nói thẳng". Đáng ngạc hiên hơn, anh còn nói rõ hẳn đích đến của họ.


Bên ngoài Vịnh, một trung sĩ USAF trẻ tuổi đang bắt được tín hiệu trên màn hình trên chiếc AWACS triệu tập người chỉ huy phi vụ.


- Chúng ta có vấn đề rồi, thưa ngài. Chỉ huy Bluejay gặp rắc rối về động cơ. Anh ta muốn RTB.


- Rồi, đã ghi, người chỉ huy phi vụ nói. Trong hầu hết các máy bay phi công là chỉ huy và chịu hoàn toàn trách nhiệm.


Trong một chiếc AWACS phi công có trách nhiệm đảm bảo an toàn cho máy bay, nhưng người chỉ huy phi vụ vẫn nghe thấy giọng nói.


- Nhưng thưa ngài, viên trung sĩ phản đối, chỉ huy Bluejay nói thẳng không dùng mật mã. Nói cả mục tiêu rồi. Tôi cho họ RTB hết nhé.

Chương trước | Chương sau

↑↑
Em ở đâu - Marc Levy

Em ở đâu - Marc Levy

Giới thiệu: Thủa niên thiếu, họ luôn ở bên nhau. Với niềm lạc quan của tuổi trẻ,

15-07-2016 10 chương
Mật mã Da Vinci - Dan Brown

Mật mã Da Vinci - Dan Brown

Giới thiệu: Trong khi đang công tác ở Pari, nhà biểu tượng học của trường Đại học

15-07-2016 106 chương
Khắc tinh của tôi

Khắc tinh của tôi

(khotruyenhay.gq - Tham gia viết bài cho tập truyện "Rồi sẽ qua hết, phải không?") Khắc

25-06-2016
Mua giầy

Mua giầy

Một người ở nước Trịnh, anh ta định mua cho mình một đôi giày để đi. Trước khi

24-06-2016
Cái chén gáo dừa

Cái chén gáo dừa

Ngày xưa, ở một vùng nọ, có vợ chồng kia hiền lành và chăm chỉ, hai người lấy

24-06-2016
Ốc nhỏ

Ốc nhỏ

Ở cái tuổi mười sáu, có lẽ cô bé nào cũng từng có một giấc mơ cổ tích của riêng

30-06-2016
Đêm Không Thể Tẩm

Đêm Không Thể Tẩm

Tiểu thuyết ngôn tình hiện đại Đêm Không Thể Tẩm của tác giả Chu Khinh có nội dung

27-07-2016 10 chương
Con vẹt xanh

Con vẹt xanh

Anh là một nhân vật nổi danh ở Hà Thành, tung hoành ngang dọc trên đảo Quỳnh, đã ba

24-06-2016
Chú Tư

Chú Tư

Nghe đến hai chữ SIDA chú Tư bỗng loạng choạng, chân tay run lẩy bẩy rồi ngã chúi

25-06-2016