Thiên nhi đang ngồi cạnh giường nên đầu chỉ ngang ngực Tiểu Thuần.
bạn đang xem “Bạch Nhật Quỷ Hồn - Ưu Đàm Hoa” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Nữ lang nghe nhột nhạt, thẹn thùng đẩy Hận Thiên ra rồi ngồi xuống bên cạnh. Nàng tủm tỉm hỏi:
- Lúc nãy đệ có sợ không?
Hận Thiên gật đầu hỏi lại:
- Vì sao tỷ tỷ lại đến đây sớm như vậy?
Tiểu Thuần tủm tỉm đáp:
- Ngu tỷ là ma quỷ nên chỉ cần vài khắc để đến đây cứu cái mạng nhỏ bé của đệ!
Trò chuyện một lúc, Hận Thiên che miệng ngáp, cười bảo:
- Chúng ta đi ngủ thôi! Tiểu đệ buồn ngủ lắm rồi!
Cậu bé thản nhiên đẩy Tiểu Thuần ngã xuống nệm, ôm chặt lấy. Chỉ lát sau đã chìm vào giấc mộng.
Sáng hôm sau, Hận Thiên thức giấc, nhận ra con ma xinh đẹp đã biến mất. Cậu bé gọi mấy tiếng cũng chẳng thấy đâu, rầu rĩ đi rửa mặt, thay áo.
Nhất Bất Thông y hẹn đến Vạn An lữ điếm cùng Hận Thiên ăn sáng và trò chuyện rất lâu. Đầu giờ Thìn, Thiên nhi mới lên ngựa rời Lạc Dương!
Ngay chiều hôm ấy, Hận Thiên vượt Hoàng Hà, đi thêm năm mươi dặm thì trời tối. Cậu ghé vào một quán trọ trong trấn nhỏ nghĩ ngơi. Đầu canh ba, Trịnh Tiểu Thuần hiện ra, khiên Thiên nhi cao hứng phi thường. Tiểu Thuần cười bảo:
- Ngu tỷ không hợp với ánh dương quang ban ngày, nếu Thiên đệ muốn ta đồng hành thì hãy mua lấy một chiếc xe ngựa mui kín!
Hận Thiên mau mắn đáp ứng, sáng hôm sau mua ngay xe ngựa, tự tay làm xà ích. Lúc đầu cậu rất lúng túng, nhưng rồi cũng quen dần.
Sau hơn hai mươi ngày đêm hần gũi, chia sẻ mệt nhọc trên đường thiên lý, tình cảm giữa hai chị em càng thêm thắm thiết. Thiên nhi đã quen với vòng tay ấm áp và mùi hương thơm ngát của Tiểu Thuần, nên đã sa lệ khi nghe nàng nói:
- Bên kia Vạn Lý Trường Thành là địa phận của một phán quan khác, ngu tỷ không thể sang đấy được, Thiên đệ cứ một mình đến Hồ Đạt Lai học nghệ. Khi nào thành tài, trở lại ngọn núi Hằng Sơn này gọi lớn, ngu tỷ sẽ xuất hiện!
Lúc này hai người đang dừng xe dưới chân rặng Bắc Nhạc Hằng Sơn.
Tiểu Thuần chỉ vào một đỉnh thâm thấp trong dãy núi:
- Ngu tỷ sẽ ở trên ngọn núi ấy chờ đợi!
Nói xong, nàng ôm ngực húng hắng ho. Thời gian qua, thỉnh thoảng nàng cũng ho như vậy!
Hận Thiên lo lắng hỏi:
- Tỷ tỷ có sao không?
Tiểu Thuần mỉm cười:
- Ta là ma quỉ, đâu có bệnh hoạn gì!
Nàng cúi xuống định hôn lên trán Hận Thiên để từ biệt, nào ngờ cậu bé cũng có ý định ấy nên cũng nhón chân lên. Vô tình hai đôi môi chạm nhau ngọt lịm. Tiểu Thuần đỏ mặt quay gót, lướt như bay về hướng ngọn núi, thoáng chốc đã mất dạng trong rừng cây rậm rạp.
Hận Thiên dõi mắt nhìn theo, dạ bồi hồi, xao xuyến, cảm thấy hồn trống vắng, quạnh hiu.
Nhớ đến mối huyết thù, Hận Thiên gạt lệ lên xe đi tiếp. Cũng là cảnh thu nhưng giờ đây lại quá ư tiêu điều, ảm đạm?
Ở vùng Tái Bắc này, mùa thu về sớm hơn Trung Nguyên. Mới cuối tháng bảy mà hàng ngô đồng ven đường đã rụng hết lá, chỉ còn trơ lại cành khẳng khui. Gió thu lạnh lẽo ào ào thổi tung mái tóc buông xõa của Thiên nhi.
Cậu bé đã đi suốt chiều dài của tỉnh Sơn Tây mà chẳng hề thấy xa. Giờ đây, chỉ còn vài trăm dặm nữa mà sao muôn trùng diệu vợi!
Hằng Sơn chỉ cách trấn Đại Đồng hon trăm dặm, nên chiều hôm ấy, Hận Thiên đã đến nơi. Theo lời dặn dò của Nhất Bất Thông Chu Minh, cậu bé tìm đến căn nhà của Sa Mạc Thần Đà Trang Vĩnh Qúi là bằng hữu chí thân của Chu Minh, có ba mươi năm xuôi ngược các vùng sa mạc hoang vu, tạo dựng nên cơ đồ. Lão đi trên sa mạc dễ dàng và an toàn như đang dạo phố ở Bắc Kinh vậy!
Trang lão đọc thư của Nhất Bất Thông, hết lòng chieu đãi Hận Thiên.
Hai ngày sau, Sa Mạc Thần Đà cho ba thủ hạ lão luyện nhất đưa Thiên nhi vượt sa mạc đến Hồ Đạt Lai.
Bốn người xuất quan, đi vào khu vực phía Nam của sa mạc Đại Qua Bích.
Cước trình của lạc đà chẳng thể so với ngựa, chúng chậm rãi bước đi giữa vùng cát vàng mênh mông vô tận. Hận Thiên khổ sở vì cái nắng cháy da và cát bụi, hết lòng thán phục những bạn đồng hành.
Đêm đến, nằm cạnh đống lửa hồng, nhìn lên bầu trời sao lấp lánh, Hận Thiên nhớ mẫu thân và Tiểu Thuần vô hạn.
Cuối tháng tám, đoàn lạc đà mới đến phía Đông Nam Hồ Đạt Lai. Nơi nào có nước thì nơi ấy có người ở. Quanh chiếc hồ rộng lớn này có đến ba tiểu trấn và sầm uất nhất chính là trấn Nam Sa, vì nằm cạnh đường sang ngoại Mông.
Va gã hán tử hộ tống Hận Thiên cũng là người Mông Cổ, nhưng rất tinh thông Hán ngữ. Họ đã dạy cho Thiên nhi nói tiếng Mông, và phục lăn trước trí nhớ phi thường của cậu bé.
Sa Mạc Thần Đà Trang Vĩnh Qúi tất nhiên phải có người quen ở trấn Nam Sa này! Ba gã người Mông đưa Hận Thiên vào một lữ quán, trước là nghĩ ngơi, sau hỏi thăm tung tích Bất Biệt Cư Sĩ.
Lão chủ quán chỉ ngọn núi ở hướng Bắc, cách đấy chừng ba chục dặm, cười bảo:
- Trên sườn ngọn núi Hoàng Cương kia có một lão thần tiên pháp thuật thông thần, thường trị bệnh cho dân chúng quanh vùng. Nhưng chẳng ai biết lão ấy có phải là Bất Biệt Cư Sĩ hay không?
Hận Thiên mừng rỡ nói với ba hán tử:
- Sáng mai tam vị cứ trở lại Đại Đồng, việc học nghệ phải vài năm mới xong, chẳng thể chờ được đâu!
Gã lớn tuổi nhất cười bảo:
- Sau khi thành tài, muốn trở lại Trung Nguyên, công tử cứ đến quán trọ này, lão chủ quán sẽ lo liệu mọi việc.
Lão ta vui vẻ xác nhận:
- Đúng vậy, lão phu là Trang Vĩnh Lợi, biểu đệ của Sa Mạc Thần Đà, đã nhận được lệnh chăm sóc công tử trong những năm ở đây, cũng như lúc trở về!
Thì ra lão nà người Hán, nhờ vậy, bữa cơm chiều không đến nỗi khó nuốt.
Mờ sáng, Hận Thiên một mình khoác bọn hành lý, cỡi lạc dà đi về hướng núi Hoàng Cương.
Ngọn núi này chỉ cao độ tám chục trượng, cây cối rậm rạp nhưng cát sa mạc phủ đầy nên có màu vàng sậm. Tên Hoàng Cương dường như xuất phát từ hiện tượng ấy!
Theo sự chỉ dẫn của Trang Vĩnh Lợi, Hận Thiên mau chóng tìm được đường mòn xuyên rừng, dẫn lên đạo quán trên sườn núi. Cậu bé phải rời lưng lạc đà, theo đường sơn đạo mà thượng sơn.
Cơ ngơi của Bất Biệt Cư Sĩ là một tòa nhà xây bằng đá vôi, mái vòm tròn theo kiểu kiến trúc của một giáo đường đạo Hồi. Tòa nhà này nằm dưới những tàn cây rậm rạp nên khá mát mẻ.
Cửa không đóng nhưng Hận Thiên chẳng dám tùy tiện bước vào. Cậu cao giọng gọi:
- Cao tiền bối! Vãn bối là hậu duệ của Vũ Di Tiên Nương, mang tín vật đến xin cầu kiến!
Bất Biệt Cư Sĩ vốn có tính danh là Cao Hán Ngọc. Hận Thiên từng thắc mắc về biệt hiệu Bất Biệt, được Mông Diện La Sát giải thích:
- Họ Cao suốt đời không phân biệt thị phi, thiện ác, có hay không có. Lão là bậc chân nhân đạt đạo, thấu hiểu bản chất tinh truyền của vũ trụ và nhân sinh. Về võ học, Bất Biệt Cư Sĩ có thể thi triển kiếm pháp ở cả hai tay, phải trái như nhau. Do đó mới có danh là Bất Biệt!
Hận Thiên gọi ba lần, không thấy ai đáp lại, đánh liều bước qua khung cửa âm u kia.
Lát sau, từ trong vọng ra tiếng hét thất thanh của Thiên nhi và rồi khung cảnh lại im lìm như cũ!
Chương trước | Chương sau