- Hoàng-phi, Trí tuệ, Bồ-quân, Anh-linh công chúa.
bạn đang xem “Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Không ghi tên họ, tôi biết đây là chức tước phong cho vương phi Bùi Thiệu Hoa.
- Thiên-uy, Thái trưởng, Từ-lang, Anh-linh công chúa.
Không ghi tên họ. Nhưng tôi biết đây là chức tước phong cho Quận-chúa Trần Ý Ninh. Sẽ thuật ở hồi sau.
À, thì ra vẫn còn đền thờ Nghĩa-hòa vương, nhưng có đôi chút khác biệt. Phổ Chiêu-quốc vương chép là Trần Tử-Đức, còn Hải-dương tỉnh thần tích chép là Trần Hiến-Đức.Còn chức tước có hơi khác, vì chức tước này do triều Nguyễn cải phong.
Hè 1988, tôi tới tận nơi sưu khảo, có trao đổi ít câu với người giữ đền, thì nảy ra khá nhiều khác biệt. Phổ chép: Thân phụ ngài là Trần Hiến công, thân mẫu là Lê thị Đạt. Đời Trần Nhân-tông, ngài làm phó nguyên súy đại vương, có công chém Toa Đô, bắt Ô Mã Nhi. Những chi tiết này hoàn toàn sai với lịch sử, nên tôi gạt thẳng những gì cuốn phổ chép, mà ghi theo phổ Chiêu-quốc vương.
Mọi việc vừa hoàn tất, thì tin Tế-tác báo về cuộc thảm sát trong thành Thăng-long. Nguyên-Phong hoàng đế chắp tay hướng lên trời :
- Thảm thay ! Ta đã nhiều lần sai lính vác loa đi gọi các người. Khuyên các người hãy tạm lui về quê. Các người không theo lời khuyên của ta, nên mới ra nông nỗi !
Sáng hôm sau, tin Tế-tác báo :
- Bọn Hoa-kiều xui Ngột-lương Hợp-thai tiến quân về Thiên-trường, tàn phá mồ mả, lăng tẩm của các tiên đế.
Tin này làm cả triều đình rúng động.
Phía Nam Thăng-long là vùng trấn nhậm của Khâm-Thiên đại vương. Hưng-Đạo vương vội sai sứ báo tin này cho vương, với lệnh như sau:
« Từ Thăng-long về Thiên-trường chỉ có hai đường đi. Một là đường thủy, dễ đi. Nhưng Mông-cổ không có thủy quân. Ngược lại hạm đội Âu-Cơ đang phong tỏa Đông Thăng-long, chúng không thể dùng thuyền. Hạm đội Động-đình đang phong tỏa các cửa sông. Hạm đội Thần-phù đang phong tỏa sông ngòi vùng Thiên-trường. Hạm đội Bạch-đằng đang trấn vùng lãnh hải phía Bắc. Còn đường bộ, thì phải qua 41 xã. Hãy dùng ba hiệu binh trực thuộc Thiên-thuộc, Thiên-cương, Chương-thánh chia ra thành từng Vệ, ẩn vào các xã, chống giặc. Muốn đánh phá 41 xã, thì giặc phải mất ba đến bốn năm. Bấy giờ ta đã phản công rồi ».
Tuy ra lệnh như vậy, nhưng Hưng-Đạo vương vẫn không yên tâm. Vương gọi Tả Kim-ngô thượng tướng quân Lê Phụ-Trần :
- Tôi sợ Khâm-Thiên đại vương không chịu chia quân ẩn vào các xã, lợi dụng địa thế xã chống giặc, mà dàn quân đại chiến. Dàn quân đánh với Mông-cổ là lấy sở đoản, chống sở trường, thì thất bại đã thấy trước rồi. Vậy phiền Thái-bảo dẫn 10 tướng Ngưu-binh gồm 5 Vệ-úy Cu, 5 Vệ-úy Trâu, cùng 3 hiệu binh Tiên-yên, Yên-bang, Yên-phụ... Xuống hạm đội Động-đình, theo đường thủy về trấn tại Thiên-trường, phòng khi Khâm-Thiên vương thất bại, còn cứu ứng kịp.
Thái-bảo Lê Phụ-Trần vâng lệnh lên đường ngay.
Quả như Hưng-Đạo vương ước tính. Khâm-Thiên đại vương là chú ruột vương. Hơn chục năm nay, vương lĩnh chức Phụ-quốc Thái-úy, một chức coi toàn bộ binh mã Đại-Việt. Thế nhưng trong trận giặc này, biết vương không có tài, Nguyên-Phong hoàng đế phong Hưng-Đạo vương làm Tiết-chế. Chức Tiết-chế cũng như Nguyên-soái, lĩnh nhiệm vụ tư lệnh trong một trận đánh, một chiến dịch. Khâm-Thiên đại vương ấm ức rằng, đáng lẽ chức Thái-úy đã là Tiết-chế rồi, mà sao còn cử Hưng-Đạo vương vào làm gì ? Vương cảm thấy bị nhục nhã. Từ mấy tháng nay, vương phải nhận lệnh Hưng-Đạo vương, mà trong lòng phiền muộn.
Bây giờ, một lần nữa Hưng-Đạo vương gửi lệnh cho vương. Vương tập họp tướng sĩ lại, rồi nói :
- Ngột-lương Hợp-thai sai con y là A Truật, mang năm Thiên-phu đánh Thiên-trường. Trong khi ta có ba hiệu binh, tới ba vạn quân. Nghĩa là quân số của ta đông gấp sáu lần. Thế mà Hưng-Đạo vương không cho ta đánh, bắt ta xé nhỏ quân thành từng vệ thủ trong các lũy tre. Ta không thể chịu nhục như vậy. Ta quyết định dàn quân đánh một trận cho bọn Mông-cổ biết tài, cho Hưng-Đạo vương biết rằng ta không phải là một Thái-úy bù nhìn.
Lập tức vương dàn quân tại cánh đồng Văn, cách Thăng-long 60 dặm, nằm trên đường Thăng-long đi Thiên-trường. Hiệu binh Thiên-thuộc bên trái, hiệu binh Thiên-cương bên phải. Hiệu binh Chương-thánh phía sau. Mười hàng đầu là chiến xa, trên đặt Lôi-tiễn, Nỏ-thần. Mười hàng thứ nhì là quân xử dụng giáo dài. Mười hàng thứ ba là quân xử dụng đao. Phía sau là các chúa tướng cỡi ngựa, chỉ huy.
Quân dàn ra từ giờ Dần. Đến cuối giờ Mão, thì Lôi-kỵ Mông-cổ xuất hiện, từ xa rần rộï tới. A Truật tiến lên quan sát trận địa rồi trở lại họp các Thiên-phu, Bách-phu trưởng :
- Không biết tướng nào chỉ huy trận này ?
Bọn Hoa-kiều đáp :
- Là Khâm-Thiên đại vương, y hiện lĩnh chức Phụ-quốc Thái-úy. Ba hiệu quân dàn ra kia có tên Thiên-thuộc, Thiên-cương, Chương-thánh. Đây là ba hiệu quân thiện chiến nhất của Đại-Việt.
A Truật bật cười :
- Lối dàn quân của y không khác gì bọn Kim, bọn Tống. Từ ngày sang An-Nam, đây là lần đầu tiên chúng ta được giao chiến, được trổ tài.
Y cầm cờ phất. Thiên-phu thứ nhất do Triệu An chỉ huy, chia làm hai. Năm Bách-phu dàn hàng hú lên rùng rợn, rồi lao tới như bay. Khi còn cách trận Việt trăm trượng, thì cùng dương cung bắn một loạt, rồi quay ngựa trở về. Quân Việt dùng Lôi-tiễn, Nỏ-thần bắn vào hàng ngũ Lôi-kỵ. Năm Bách-phu thứ nhì nối tiếp năm Bách-phu thứ nhất, cũng bắn một loạt tên, rồi quay ngựa chạy. Quân Việt cũng bắn trả.
Khâm-Thiên đại vương cầm cờ phất, chiến xa Đại-Việt, rời hàng ngũ, đuổi theo Lôi-kỵ. Thì vừa lúc ấy Thiên-phu của Di Hòa tới. Hai bên giáp chiến khoảng môt khắc, rồi Lôi-kỵ lại bỏ chạy. Quân Việt xua chiến xa đuổi theo. Nhưng Lôi-kỵ đã biến mất vào khu đồng cỏ. Khâm-Thiên vương phất cờ cho quân Việt ngừng lại. Vương nói với chư tướng :
- Từ trước đến giờ người ta cứ sợ bóng, sợ gió Lôi-kỵ như con ngáo ộp. Đó ! Bây giờ mới có mấy đợt chúng đã bỏ chạy rồi.
Thình lình có hàng muôn ngàn tiếng hú, tiếng ngựa hý. Quân Mông-cổ trở lại, với năm hàng ngang. Chúng lao tới như bay, dương cung bắn. Quân Việt bắn trả. Nhưng lần này Lôi-kỵ không chạy, mà xung thẳng vào trận Việt. Sau một khắc giao tranh, chúng phá vỡ năm hàng đầu của chiến xa, rồi đánh tỏa ra hai bên. Lớp thứ nhì tiếp lớp thứ nhất, đánh thẳng về sau, cắt đứt năm hàng quân giáo dài của Đại-Việt. Quân hai bên lẫn lộn vào nhau kịch chiến.
Giữa lúc đó, hai Thiên-phu Lôi-kỵ thình lình xuất hiện, đánh vào hai bên hông. Tuy bị bất ngờ, nhưng quân Việt gan dạ chống trả. Cuộc hỗn chiến giữa năm nghìn Lôi-kỵ với ba hiệu binh thực khủng khiếp. Một bên là Kỵ-binh bách chiến bách thắng, gặp đồng bằng thả sức tung hoành. Một bên là ba hiệu binh tinh nhuệ, chết sống bảo vệ quê hương. Cuộc chiến kéo dài tới Ngọ vẫn chưa ngã ngũ. Lôi-kỵ chết quá hai nghìn. Trong khi bộ binh Đại-Việt chết hằng vạn.
Sang giờ Mùi, thình lình năm Thiên-phu Lôi-kỵ xuất hiện từ phía sau, đánh vào hậu quân Đại-Việt. Khâm-Thiên vương kinh hãi:
- Rõ ràng chúng chỉ có năm Thiên-phu, mà sao bây giờ lại có năm Thiên-phu khác nữa?
Chư tướng đáp:
- Từ đây về Thăng-long có 20 dặm. Chỉ cần một khắc sức ngựa, thì Ngột-lương Hợp-thai sẽ phái thêm năm Thiên-phu nữa tiếp viện. Không chừng còn mười Thiên-phu khác cũng sắp tới.
Lôi-tiễn, máy bắn đá Mông-cổ đã được xe kéo đến, đồng loạt nã vào trận Việt. Dù can đảm, dù thiện chiến, nhưng quân Việt bị sức mạnh Lôi-kỵ đánh từ ba phía, bị đá bắn lên đầu, dần dần tử thương gần hết.
Trận Việt bị vỡ.
Lôi-kỵ ép ba phía mỗi lúc càng chặt. Các võ sĩ nói với Khâm-Thiên vương :
- Một là xin vương gia tự tử. Hai là xin vương gia bỏ chạy. Đừng để giặc bắt.
Thấy Lôi-kỵ đã tiến sát tới chỗ mình đứng. Khâm-Thiên vương đành phất cờ cho quân lùi lại, còn vương thì theo đoàn võ sĩ bỏ chạy vào cánh đồng lầy lội bên cạnh.
Mông-cổ toàn thắng.
A Truật kiểm điểm lại : Hơn ba nghìn Lôi-kỵ bị giết. Y ra lệnh chỉnh đốn lại binh mã, để tiếp tục lên đường. Ngột-lương Hợp-thai đã đến. Quan sát thế trận, nhìn xác quân Việt nằm trải dài trên cánh đồng, y lắc đầu :
- Quả thực ba hiệu binh này vừa thiện chiến, vừa can đảm. Quân Kim, quân Tống, quân Tây-vực bì thế nào được? Nhưng tướng chỉ huy là tên Nhật-Hiệu, y ngu như con bò, nên bị ta phá. Thôi, người hãy mang năm Thiên-phu Lôi-kỵ tiếp tục lên đường tiến về Thiên-trường.
Thừa thắng, dù mặt trời đã ngả bóng, A Truật thúc quân lên đường. Quân trẩy được mươi dặm, thì gặp một làng chặn ngang đường đi. Địa thế giống hệt Cụ-bản. Y kinh hãi hỏi bọn hướng đạo:
- Từ đây về Thiên-trường còn bao nhiêu chiến lũy như thế này nữa?
- Thưa có tất cả 41 cái.
A Truật tiến lên quan sát: Trong chiến lũy cờ xí bay phất phới. Lũy tre cao vút, dầy đặc, hào sâu, chông chà chơm chởm. Y ra lệnh cho Triệu An:
- Quân của Nhật Hiệu vừa bị phá. Nhân thế thắng như chẻ tre, người chỉ huy Thiên-phu cơ hữu, với năm Thiên-phu quân Đại-lý, một Thiên-phu tân lập, gốc người Hoa ở An-Nam thử tấn công xem sao?
Triệu An chia quân làm hai. Lôi-kỵ theo con đường chính tấn công vào cổng trước. Bộ binh dàn ra, lội ruộng tấn công dọc theo con lạch, lũy tre. Y dùng lại phương pháp đánh Cụ-bản.
Nhưng khi bộ binh vượt qua con lạch, dùng dao chặt lũy tre, thì một hồi tù và nổi lên, rồi các cổng phụ mở rộng. Mỗi cổng một đoàn trâu hàng năm lồng ra, rồi nhanh chóng đánh bọc phía sau. Bọn tướng trâu cũng lại là bọn ở Bình-lệ nguyên, Cụ-bản, đó là năm Cu. Đám bộ binh kinh hãi, bỏ chặt rào, quay lại chống Ngưu-binh. Bấy giờ quân trong lũy tre mới phản công. Bị đánh ép phía sau, chặn đầu phía trước. Không đầy hai khắc đám bộ binh bị giết gần hết. Phần còn lại bỏ chạy tán loạn trên cánh đồng lúa.
Trên con đường chính đến cổng trước. Bọn võ sĩ, nấp sau các lá chắn xông vào. Khi còn cách cổng hơn dặm, thì cổng mở rộng, Ngưu-binh tiến trước với Khiên-mây che thân. Lúc cuộc giao chiến bắt đầu, thì hai đội Ngưu-binh khác lội xuống ruộng đánh bọc hai bên.
Sau ba đợt tấn công, quân chết hơn nửa, mà chiến lũy vẫn vô sự. Triệu Anh truyền quân lưu lại, báo cáo với A Truật.
Kinh nghiệm trận Cụ-bản, Phù-lỗ, A Truật biết rằng muôn ngàn lần mình không thể nhổ được 41 chiến lũy, để tiến về Thiên-trường. Y báo với Ngột-lương Hợp-thai.
Chính lúc đó, tên Trịnh Ngọc, Trịnh Đức, cùng với bọn bang trưởng các bang Hoa-kiều đang họp với Ngột-lương Hợp-thai trong thành Thăng-long. Bọn chúng dò được nhiều tin tức, cung cấp cho Mông-cổ .
Bọn du thủ, du thực của anh em họ Trịnh báo động :
« Trên đường từ Thăng-long về Thiên-trường, có 41 xã. Dân trong các xã này gốc do Nguyên-tổ Trần Lý của triều đình, khi còn là Thần-nông sứ đã quy dân lập lên, gần bẩy mươi năm. Xã được tổ chức rất quy củ, có hệ thống phòng vệ cực chu đáo. Gần đây dân chúng được tổ chức phương pháp phản tấn công của Mông-cổ. Họ có khả năng chiến đấu như những đạo quân thiện chiến. Hai hôm trước, Thái-bảo Lê Phụ-Trần dẫn ba hiệu binh Tiên-yên, Yên-bang, Yên-phụ, cùng bọn tướng Ngưu-binh ưu tú, năm Cu, năm Trâu, năm Hĩm về đây. Bộ binh, Ngưu-binh chia thành từng vệ, tản vào, cùng dân chúng trấn thủ. Không thể, không nên đánh về Thiên-trường ».
Bọn các bang hội người Hoa báo :
« Khi Hưng-Đạo vương thiết kế, đã chia cho mỗi đại tướng một vài hiệu binh trấn thủ vùng trách nhiệm. Các hiệu binh sẽ chia thành Vệ, tản vào xã cùng dân chống quân Thiên-triều. Thế nhưng Khâm-Thiên đại vương làm trái lệnh, dàn quân nghênh chiến. Ba hiệu binh tinh nhuệ bị phá tan. Vậy bây giờ, xin Thái-sư lập tức xua quân tiến về vùng quản nhiệm của Khâm-Thiên đại vương là Trường-yên, Sơn-Tây, Sơn-Nam, Hồng-châu, Đăng-châu. Những vùng này chỉ có dân binh, thì ta chiếm các làng xã dễ dàng ».
Ngột-lương Hợp-thai phong cho những bang trưởng, hội trưởng người Hoa, hoặc bọn du thủ du thực Việt làm An-phủ sứ, Tuyên-vũ sứ, các phủ, huyện, trấn. Lệnh cho chúng tự tổ chức lấy đội quân, đi trấn nhậm vùng được phong. Nhưng khi chúng tới nhiệm sở, bị dân chúng đánh giết, chúng bỏ chạy tán loạn. Biết không thể dùng bọn người Hoa được, Ngột-lương Hợp-thai tổ chức mười đạo binh. Mỗi đạo bao gồm một Thiên-phu Lôi-kỵ, một Thiên-phu quân Trung-quốc hoặc quân Đại-lý, một đội binh người Hoa, đi trấn các vùng này. Thành công. Bọn chúng cử người vào các xã thuyết phục :
« Nếu mở cửa hàng, sẽ được bảo đảm tính mệnh, tài sản. Bằng không, hãy coi gương Bình-lệ nguyên, Cụ-bản Phù-lỗ, Thăng-long ».
Biện pháp độc địa có kết quả. Dân chúng hoang mang. Vùng nào có quân triều ẩn vào làng xã, thì còn giữ được. Nhiều xã vùng Sơn-tây, Sơn-nam, Hồng-châu, Đăng-châu, Trường-yên biết không giữ nổi, mở cổng làng, theo bọn ngụy quan.
Hệ thống phòng thủ chung bị rối loạn. Màng lưới liên lạc, di chuyển, thông tin của triều đình bị cắt đứt. Các cơ quan của triều đình ẩn trong những vùng trên, phải di chuyển, bỏ chạy sang các vùng khác !
Sau khi thất trận, Khâm-Thiên đại vương được võ sĩ hộ tống chạy thoát về Thiên-trường, ngồi run rẩy. Giữa lúc đó Nguyên-Phong hoàng đế cũng bị mất liên lạc với Hưng-Đạo vương. Toàn quốc rối loạn, đại thần, binh tướng kinh hoàng. Các thôn, xã đang rục rịch hàng giặc. Nhà vua hỏi Khâm-Thiên vương :
- Tình hình nguy như trứng chồng trên đá. Vương là Thái-úy, vương định chống giặc bằng kế sách gì ?
Khâm-Thiên vương ngồi chết lặng trên thuyền một lúc rồi tâu :
- Thăng-long trong tay giặc. Phủ, huyện hầu hết bị giặc chiếm rồi. Làng xã cũng hàng giặc. Thế nước đã tan. Bệ hạ hãy mau mau cùng cung quyến dùng thuyền sang Tống ẩn thân, may ra mới tìm được cái sống.
Miệng nói, tay vương cầm cái sào viết xuống nước chữ Nhập Tống. Có nghĩa: Trốn sang Tống.
Bị ảnh hưởng lời tâu của Khâm-Thiên vương, khuyên nên bỏ nước, trốn sang Tống; Nguyên-Phong hoàng đế chưa biết phải ứng phó ra sao, thì Thái-bảo Lê Phụ-Trần tâu :
- Hiện Thái-sư Trần Thủ-Độ với Hưng-Đạo vương đang ở Đông-bộ đầu. Thần xin đem chiến thuyền bảo giá bệ hạ về hội kiến với các vị ấy, để biết rõ quân tình.
Di giá hoàng đế tới Đông-bộ đầu giưã lúc Thái-sư Trần Thủ-Độ, Hưng-Ninh vương, Hưng-Đạo vương, Nhân-Huệ vương đang hội nhau, nghị kế chống giặc. Thấy thần sắc nhà vua tái mét, đôi mắt lờ đờ, Hưng-Đạo vương hiểu những gì đã diễn ra ở Thiên-trường.
Hoàng-đế hỏi :
- Kinh thành thì giặc đã chiếm. Lỵ sở hầu hết các trấn, phủ, huyện, giặc đã đặt quan cai trị. Làng xã nhiều nơi đã theo giặc. Ba hiệu binh thiện chiến nhất của ta bị đánh tan. Dù quan, dù quân, dù đại thần, cũng đều kinh hoàng. Vậy chư khanh định sao ?
Thái-sư Trần Thủ-Độ tỏ vẻ cương quyết :
- Gốc của sự việc là do Khâm-Thiên vương hành sự ngược lại quốc kế. Đúng ra, vương phân chia ba hiệu Thiên-thuộc, Thiên-cương, Chương-thánh thành từng Vệ, ẩn vào trang ấp thuộc Sơn-tây, Sơn-nam, Hồng-châu, Đăng-châu, Trường-yên, cùng dân chúng, dựa vào địa thế các xã chống giặc thì sao chúng chiếm nổi ? Khắp các nước phương Tây cho chí Hạ, Kim, Liêu, Tống, chưa từng nước nào dàn bộ binh mà thắng nổi Lôi-kỵ. Vương dàn quân đánh với Lôi-kỵ, khiến ta mất ba hiệu binh, dĩ nhiên mất luôn 5 huyện trấn nhậm của ba hiệu binh đó là lẽ thường.
Nhà vua vẫn run run :
- Bọn Mông-cổ tàn sát dân Thăng-long, thành ra các xã lo sợ, không dám chống chúng nữa nên mới quy hàng ! Nếu các xã hàng giặc hết, thì nước còn gì?
- Bệ hạ bình tĩnh lại. Những xã quy hàng giặc vì họ không có quân triều đình trợ chiến. Biết Mông-cổ không ai bằng thần. Đánh Ngột-lương Hợp-thai cũng ai hơn thần. Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo.
Ghi chú của thuật giả
Xét chung cuộc đời Trần Thủ-Độ: Chỉ vì ông sinh ra, lớn lên trong vùng Thảo-nguyên, chịu ảnh hưởng phong tục tập quán của Mông-cổ. Nên khi về Đại-Việt, ông không khép mình trong vòng lễ giáo khắt khe của Nho-gia. Làm ma, làm quỷ, ăn cắp, ăn cướp, thông dâm với vợ người... Vì vậy đương thời, cũng như sau này, ông bị công kích về những hành vi phóng túng. Thế nhưng, xét về phương diện quốc gia, dân tộc, ông là một đại anh hùng. Phải trở lại với thời gian cuối triều Lý, phong hóa suy đồi, dân chúng đói khổ, giặc cướp nổi lên...kỷ cương không còn. Vua Trần Thái-tông khi lên ngôi mới có 8 tuổi. Một mình ông lèo lái đất nước, trong xây dựng triều đình mới, ngoài dẹp giặc. Chỉ sau một thời gian ngắn, mà Đại-Việt trở thành hùng cường, thắng đội quân hùng mạnh nhất thế giới. Công ông thực không nhỏ. Tiếc thay, người đời nay, hành vi còn phóng đãng hơn ông nhiều, thế nhưng vẫn kết tội ông. Bằng chứng, trong những thành phố lớn tại miền Nam trước 1975, không thấy có tên phố Trần Thủ-Độ, cũng không có trại binh, trường học mang tên ông.
Hầu hết các tướng đời Trần, có huân công với xã tắc đều được lập đền thờ, mà Trần Thủ-Độ thì không. Ngay tại đền Bảo-lộc ở Mỹ-lộc Nam-định, tại đền thờ Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng ở thị xã Cẩm-phả, tỉnh Hạ-long, trong tạc tượng thờ tất cả các vua Trần, công thần đời Trần, mà cũng không thờ Trần Thủ-Độ. Xấu hổ thay, ngay bên sông Bạch-đằng người ta thờ tên giặc Nguyễn Linh Nhan! Và ở ngoại ô Hà-nội người ta thờ tên giặc cướp nước Sầm Nghi Đống, đến nỗi nữ sĩ Hồ Xuân Hương phải than:
Ghé mắt trông theo thấy bảng treo,
Kìa đền thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
Trong cuộc sưu tầm, tôi chỉ thấy duy nhất tại xã Hương-tảo, huyện Yên-dũng, tỉnh Hà Bắc thờ ông ở đình làng làm thần Thành-hoàng.
Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích.
Nghe Thái-sư Thủ-Độ nói lời cương quyết, Nguyên-Phong hoàng đế lấy lại được bình tĩnh.
Hưng-Đạo vương tâu :
- Giặc đã bỏ ý định tiến quân về Thiên-trường. Ngột-lương Hợp-thai sai quân chiếm mười lỵ sở, phong cho bọn Hoa-kiều, bọn đầu trâu mặt ngựa làm quan cai trị, bức các xã đầu hàng. Còn quân Mông-cổ thì chúng rút về Thăng-long. Y tưởng như vậy là yên. Y đâu biết các xã hàng giặc vì bất đắc dĩ mà thôi. Bây giờ y rút quân đi, các xã đâu có sợ bọn quan lại đầu trộm đuôi cướp nữa ? Thần đã lệnh cho Thái-bảo Lê Phụ-Trần chia quân thành từng Đô, từng Vệ, len lỏi vào các xã vùng Trường-yên, Sơn-nam giúp dân chống giặc. Dân chúng dù muốn, dù không cũng phải trở về với triều đình. Còn 5 huyện thuộc vùng Hồng-châu, Đăng-châu, Sơn-Tây thần cũng ra lệnh cho Nhân-Huệ vương Trần Khánh-Dư làm tương tự.
- Nếu như Ngột-lương Hợp-thai lại sai quân tái chiếm các huyện thì sao ?
Chương trước | Chương sau