- Sau lũy tre kia, có con sông nhỏ chảy ngang, rộng khoảng ba trượng. Trên sông có cây cầu đá, tên làcầu Bà Do. Coi chừng có phục binh.
bạn đang xem “Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Một Lôi-kỵ vọt ngựa lên quan sát rồi trở lại báo cáo :
- Cầu đã bị phá. Xung quanh không có dấu vết phục binh.
Hoài Đô truyền dừng quân lại. Đội Công-binh Trung-quốc được đưa lên bắc cầu. Binh sĩ đào đất, ném xuống lấp sông. Phải hơn giờ mới lấp xong.
Trần Minh đề nghị :
- Ngựa nhẹ hơn trâu. Để tôi cho trâu sang trước. Hễ trâu không bị lún chân thì ngựa qua được.
Trần Minh cùng 12 võ sĩ, tên Trịnh Long sang sông yên lành. Hoài Đô phất tay ra lệnh. Một Bách-phu Lôi-kỵ sang yên ổn. Bách-phu thứ nhì vừa đi đến giữa cầu, thì một tiếng tù và rúc lên. Tên từ trong bụi tre bắn ra rào rào. Bách-phu thứ nhì ngã lăn xuống sông. Người, ngựa chết, nằm la liệt trên hai bên mố cầu. Bùi Thiệu Hoa cùng đội nữ võ sĩ xuất hiện. Kiếm vung lên lấp lánh như sao sa. Mỗi ánh kiếm là một đầu Lôi-kỵ rơi xuống. Trong khi phía bên kia, Trần Minh cùng đám võ sĩ xua trâu xông vào Bách-phu thứ nhất. Đao-quất vung lên. Thoáng một cái, cả Bách-phu đã bị hạ hết. Tên Trịnh Long đang hoảng hốt, thì Bùi Thiệu Hoa túm cổ y điểm huyệt rồi cặp vào nách. Khi Thiên-phu Triệu An phản ứng, thì Thiệu Hoa, Trần Minh và đội nữ võ sĩ đã xua trâu chạy vào con đường mòn nằm giữa các lũy tre.
Tên trong lũy tre ngừng bắn ra. Triệu An ra lệnh cho Lôi-kỵ tiến lên lục soát, thì không một bóng người, không một bóng thú. Hoài Đô xấu hổ vì bị trúng kế. Y chửi :
- Tổ bà nó ! Biết rằng bị thương nặng, trước sau gì cũng chết, tên Trần Tử-Đức muốn tự tử. Nghĩ rằng tự tử tối vô ích, xác bị phơi nắng phơi mưa, y bầy trò ma, trò quỷ. Kết quả, xác y được chôn cất chu đáo. Y để mưu kế sai con vợ xinh đẹp với bọn Trần Minh phục kích ta. Được ! Sau khi chiếm Thăng-long, ta sẽ cho quật mồ y, đem xác vứt xuống chuồng hôi cho dòi, bọ ăn thịt.
Xác tử sĩ Mông-cổ được chôn tại chỗ. Hoài Đô ra lệnh tiếp tục tiến quân. Lần này y không tiến trước nữa. Y để bọn Triệu An đi tiên phong. Đi được 5 dặm, thì Thập-phu đi đầu quay lại báo :
- Có một cái ụ bằng chuối chắn ngang đường. Trên ụ có năm cái bồ, hương bốc ra thơm ngát. Phía sau có bao nhiêu quân không rõ.
Hoài Đô ra lệnh :
- Đánh chiếm ụ.
Lôi-kỵ dương cung lao lên. Nhưng sau ụ không một bóng người. Triệu An ra lệnh phá ụ. Chùy vung lên, đao phạt ngang. Năm cái bồ bị chém làm hai, bị đập bẹp. Từ trong bồ hàng vạn, hàng triệu con ong bay ra. Thấy người phá tổ của chúng. Lòng hận thù ngùn ngụt, chúng nhào xuống đốt. Giữa lúc đó tên từ bên kia sông bắn sang ào ào. Lôi-kỵ ôm đầu lui trở lại. Bọn lao binh mách :
- Đốt lửa lên, thì ong phải chạy.
Chúng lấy cỏ, châm lửa đốt. Phải mất hơn một giờ bầy ong mới bay đi hết. Kiểm điểm lại, ong không làm chết người , nhưng hàng nghìn quân bị ong đốt, đau nhức rên la khốn khổ. Hơn trăm quân, ngựa bị trúng tên.
Hoài Đô chửi thề :
- Tụi Nam-man này thực kinh khủng. Cái gì chúng cũng có thể dùng vào chiến tranh được. Có 5 cái tổ ong, mà nó làm cho mấy nghìn người xính vính.
Hơn giờ sau, Triệu An được báo :
- Đã thấy sông Hồng trước mặt. Trên bến Bắc-ngạn, dân chúng xếp hàng hai bên đường, thắp hương đón quân Thiên-triều.
Hoài Đô sai người báo với Ngột-lương Hợp-thai. Y kinh ngạc hỏi gã Trịnh Ngọc :
- Có sự ấy được ư ?
- Thưa Thái-sư tôi không tin. Vì bọn An-Nam kinh sợ Lôi-kỵ của Thiên-triều, từ hơn tháng nay, Trần Cảnh đã ra lệnh cho dân chúng phải rời khỏi Thăng-long. Còn triều đình, thì bỏ trốn hết. Dân chúng có gan bằng trời, cũng không dám ở lại. Vùng này thuộc quyền trấn nhậm của Trần Khánh-Dư , tước phong Nhân-Huệ vương hiện lĩnh Phiêu-kỵ thượng tướng quân, Tổng-trấn Thăng-long. Tôi nghi đây là quỷ kế của y.
- Trần Khánh-Dư à ? Tại sao ta chưa từng nghe qua tên y ?
- Y là cháu nội của Thiên-sứ Trần Thủ-Huy.
- Cháu nội Phò-mã Thiên-sứ Trần Thủ-Huy ư ? Như vậy y là con của nhị ca Thủ-Độ sao ? Lẽ nào ?
- Không hẳn thế.
Trịnh Ngọc giảng giải : Thái-sư không nhớ việc Phò-mã Thiên-sứ Thủ-Huy tục huyền với Vương Thúy-Thúy ư ? Vương Thúy-Thúy sinh ra một trai tên Trần Thủ-Minh, một gái tên Trần Như-Lan. Khi tướng quân Thủ-Độ đi sứ An-Nam có dẫn hai người em về. Trần Thủ-Minh sau làm đại tướng, cầm quân đi dẹp giặc, bị tử thương, để lại một con còn thơ tên Trần Khánh-Dư. Thái-tổ nhà Trần là Trần Thừa nhận làm con, đem về nuôi trong cung. Cho nên Dư được phong vương.
- Tài năng y ra sao ?
- Y được bà nội là Vương Thúy-Thúy dạy võ công Hoa-sơn, rồi lại được vợ Trần Lý là Tuyên-minh thái hoàng thái hậu trực tiếp truyền thụ, nên y là một trong những võ tướng có võ công cao nhất. Y rất thông minh, lầu thông binh pháp Trung-quốc, Đại-Việt, Mông-cổ. Tài trí y chỉ thua có Hưng-Đạo vương với Hưng-Ninh vương mà thôi. Phải đối đầu với y là một điều đáng ngại.
- Y có uy tín không ?
- Không ! Y thâm nhiễm phong tục vùng Thảo-nguyên của cha, vì vậy hành vi của y cực kỳ phóng túng, bị người Việt kết tội.
Đến đây Triệu An trở lại báo :
- Dân chúng thắp hương, đem trâu, lợn đón ta là người Hoa-kiều. Người Hoa ở Đại-Việt cho rằng chiến tranh này là chiến tranh giữa người Việt với Mông-cổ, họ vô can. Họ lý luận rằng, trong quân của ta có nhiều võ tướng, có nhiều binh lính gốc Trung-quốc, thì chắc rằng họ không bị giết hại. Họ không theo dân Việt trốn đi, mà ở lại. Vì vậy họ mới đi đón.
Nghe báo, trong lòng Ngột-lương Hợp-thai mở ra một ý mới : Dùng người Hoa làm tai mắt chống người Việt. Y ban lệnh :
- Hãy dùng các Thập-phu, Bách-phu Thiên-phu trưởng gốc Trung-quốc phủ dụ chúng. Hứa bảo vệ tài sản, nhân mạng chúng. Tuyển lấy những đứa có tài làm tai mắt, chân tay, rồi lấy lợi nhử chúng, cho phép chúng tự do cướp của, bắt đàn ông làm tôi mọi, bắt đàn bà con gái làm tỳ thiếp. Cho giết người tùy thích.
Bọn tướng sĩ gốc người Hoa theo Mông-cổ, vốn là loại đầu trộm đuôi cướp, bị quan quân Tống triều truy lùng, chúng bỏ theo Mông-cổ. Trong suốt bao năm chinh chiến, đánh phá chính quê hương chúng, chém giết đồng bào chúng, cướp của người dân của chúng...đi đến đâu chúng cũng bị người Hoa khinh khiến, nhục mạ, gọi là Hán-gian, riết rồi chúng coi người Hoa như những kẻ thù không đội trời chung. Bây giờ tới Đại-Việt, chúng được người Hoa tiếp đón ân cần, quỳ lụy, coi chúng như những anh hùng hiệp sĩ, cứu khốn phò nguy... Tự nhiên chúng thấy mình là anh hùng. Chúng tập họp Hoa kiều lại, hứa hẹn những gì mà Ngột-lương Hợp-thai đã hứa.
Bọn người Hoa được hứa hẹn, thì vui mừng chi siết kể, chúng dẫn bọn Hán-gian đi vào khắp các lạch, ngòi trưng thu thuyền bè. Không đầy nửa buổi, chúng đã kiếm được hàng nghìn thuyền lớn nhỏ, rồi thân chở quân Mông-cổ sang sông.
Chiều hôm đó, phân nửa quân Mông-cổ đã ở ngoài thành Thăng-long. Bọn người Hoa báo :
- Vua, quan An-Nam trốn hết rồi. Thành bỏ không.
Hoài Đô trì nghi :
- Chắc chúng mới trốn sáng nay. Chứ nếu chúng trốn hôm qua, thì trong thành đã có nạn cướp bóc khủng khiếp diễn ra. Trốn như vậy thì ắt có cơ mưu, chứ trốn vì sợ hãi thì chúng trốn từ lâu rồi.
Tuy vậy y vẫn truyền lệnh cho ba Thiên-phu trưởng Tăng Phúc, Triệu An, Di Hòa, chia nhau tiến quân vào Thăng-long. Nhờ có bọn Hoa-kiều dẫn đường, ba Thiên-phu nhanh chóng chia nhau trấn đóng các cung điện, Lục-bộ, Khu-mật viện, rồi sai người báo với Ngột-lương Hợp-thai. Ngột-lương Hợp-thai dẫn Hoài Đô, A Truật nhập thành.
Sau khi lục soát hết các cung điện, Triệu An báo cáo :
- Trong thành không một bóng người, không một bóng thú. Lương thảo, kho lẫm trống rỗng. Duy nhà ngục đông nghẹt tù nhân.
Hoài Đô ra lệnh :
- Thả tất cả tù ra, cấp vũ khí cho chúng, thu dụng chúng làm quân Tế-tác dẫn đường.
Lát sau, Triệu An trở lại báo :
- Tìm thấy ba Thiên-phu trưởng, được cử làm sứ thần, bị trói bằng lạt. Đã cắt lạt cứu ra, nhưng chỉ hai còn sống. Thiên-phu trưởng Bật Triệt (Bourteck) bị chết cứng từ bao giờ.
Ngột-lương Hợp-thai nghiến răng :
- Thế này thì đừng ai trách ta tàn ác nhé.
Y chỉ tay lên trời :
- Đại quân chúng ta tiến đánh Tây-vực, bất cứ tới thành nào, là dù vua, dù tướng, dù dân đều răm rắp mở cửa thành, khom mình quy hàng, cung ứng lương thảo. Bất cứ nơi nào chống lại, thì sẽ giết tuyệt, dù già, dù trẻ, dù con đỏ cũng không tha. Từ hôm nhập biên đến giờ, chúng ta mải tiến quân, chưa có dịp ra oai. Bây giờ ta đã chiếm được kinh đô của An-Nam, ta phải giết hết dân Thăng-long, để các nơi khác lấy đó làm gương. Như vậy, khi ta tiến quân đến đâu, mới mong chúng quy hàng.
Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, từ năm cửa thành Thăng-long, mỗi cửa thành có ba Thiên-phu Lôi-kỵ, năm Thiên-phu vừa lao binh, vừa binh Đại-lý tràn ra. Chúng dùng bọn tù nhân, bọn người Hoa chỉ đường, nhanh chóng lùa tất cả dân chúng vào năm khu. Trước hết chúng lựa những thợ mộc, thợ nề, thợ khắc, thợ rèn, thợ vàng bạc cho đứng riêng ra. Lại lựa những nhạc công, ca nhi cho đứng riêng ra chỗ khác. Cuối cùng, chúng lựa đàn bà con gái đẹp, tuổi từ mười tới ba mươi, cho đứng riêng ra một chỗ khác nữa. Tên Thiên-phu Triệu An đứng lên tuyên án :
- Từ xưa đến giờ, Thiên-binh đi đến đâu, thì dù vua, dù quan, cũng phải mở cửa thành quy phục. Bất cứ nơi nào chống lại sẽ bị giết tuyệt, dù con chó, con mèo cũng không tha. Khi đại quân dàn ra biên giới, Thái-sư đã ba lần sai sứ sang chiêu hàng, vua các người không quy phục, còn đem quân chống trả, bắt giam sứ thần. Vì thế hôm nay, ta giết tất cả các người. Tuy vậy, bọn gái đẹp cần giữ lại làm đồ chơi cho quân sĩ ; bọn ca nhi, nhạc công cần để sống để hầu hạ binh tướng. Bọn thợ giỏi cũng được tha để làm việc.
Tuyên án xong, hằng trăm Lôi-kỵ vung đao lăn vào đám dân chúng khốn cùng. Mỗi đao vung lên, một cái đầu rơi xuống. Tiếng kêu khóc vang lên đến trời, máu ngập kinh thành. Giết xong, chúng ném xác xuống sông. Con đầu thì chúng xếp thành từng đống, theo hình tháp, mỗi đống một nghìn đầu. Tất cả 200 đống.
Kinh nghiệm trong những lần tàn sát tại các nước Tây-vực, sau cuộc lùa bắt, thế nào cũng còn nhiều người lẩn trốn. Ngột-lương Hợp-thai cho rút quân vào thành, rồi hai giờ sau tung quân ra bao vây lục soát. Y lại bắt được hơn vạn người trốn tránh. Lần này y không giết, mà truyền đốt nhà, rồi quẳng vào đống lửa. Bọn Lôi-kỵ, bọn Hán-gian đứng nhìn cảnh kêu khóc tuyệt vọng, cảnh ném người vào biển lửa, lăn lộn, mà khoan khoái, reo hò như nhìn một cảnh diễn trò chơi. Thành Thăng-long cháy trong ba ngày chưa tắt ngọn lửa. Trong thành chỉ mấy phường của Hoa-kiều là còn nguyên.
Đúng lúc đó, các đạo quân từ Phù-lỗ rút về tới Đông-bộ đầu. Nguyên-Phong hoàng đế cùng Thái-tử, Hưng-Đạo vương, Hưng-Ninh vương thân dẫn các quan ra đón, ủy lạo thương binh, đem về Thiên-trường điều trị. Ngài truyền lập đàn tế vọng chư tướng sĩ tuẫn quốc, rồi ban sắc chỉ phong chức tước.
Nghe Trần Minh thuật lại về cái chết oanh liệt của chồng, sắc mặt Bùi Thiệu Hoa không hề thay đổi. Phu nhân bước tới hành lễ với Nguyên Phong hoàng đế, với Hưng Đạo vương. Lại quỳ trước linh vị chồng lạy bốn lạy, rồi rút kiếm đưa lên cổ tự tử.
Nguyên Phong hoàng đế thương tiếc vô cùng. Ngài truyền khâm liệm thi hài phu nhân, đem về Yên-bang an táng.
Phú-lương hầu Trần Tử-Đức được truy phong :
Dao-thụ thái phó,
Phụ-quốc thượng tướng quân,
Kinh-Bắc tiết độ sứ,
Quan sát sứ,
Xử trí xứ,
Minh tâm tĩnh lự công thần.
Nghĩa-hòa vương.
Sang triều Lê được cải phong là :
Bản cảnh thành hoàng, chiêu sinh hiến đức thượng đẳng đại vương.
Đến triều Nguyễn, được cải phong :
Linh-quang hộ quốc, bảo cảnh, hùng uy bệ hạ, anh linh đại vương, thượng đẳng thần.
Phu nhân được phong :
Hiếu-khang, Linh-anh, Trinh nhất công chúa.
Sang triều Nguyễn, phu nhân được cải phong là :
Hoàng-phi, Trí-tuệ, Bồ-quân, Anh linh công chúa.
Triều Trần truyền lập đền thờ vương và công chúa, phối thờ vào Thái-miếu. Sau khi hết giặc lại cho cải táng thi hài của Vương, đem về Yên-sinh, chôn cạnh mộ phu nhân.
Các tướng được phong thưởng như sau :
Quận chúa Trần Ý Ninh được phong Hồng-đức, Trang-duệ, Vũ-thắng công chúa. Truyền gả cho Vũ-Uy vương.
Đô-thống Lý Tùng-Bách được phong Vũ-kỵ thượng tướng quân, tổng lĩnh Kỵ-binh, tước Kiến-phong bá.
Đô-thống Trần Trữ được thăng Phá-lỗ thượng tướng quân, Phù-lỗ bá.
Đô-thống Trương Đình được phong Hoài-hóa thượng tướng quân, tước Siêu-loại bá.
Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh được phong Đại-đởm thượng tướng quân, tước An-xuyên bá.
Tá-lĩnh Trần Minh được thăng Đô-thống, tước Vị-thanh tử.
Ngoài ra tất cả tướng sĩ đều được thăng một đẳng.
Ghi chú của thuật giả
Trong suốt năm kỳ hè, từ 1994 đến 1998, tôi lần mò đến hầu hết những vùng là chiến trường cũ thời Trần, nhưng không tìm thấy đền thờ Nghĩa-hòa vương. May thay, trong gia phả của chi 1, dòng dõi Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc tại trấn Nhạc-dương, thị xã Trường-sa Trung-quốc có ghi vắn tắt:
"Phú-lương hầu Trần Tử-Đức cùng vợ tuẫn quốc tại Phù-lỗ được phong Nghĩa-hòa vương. Đức là con Trần Hiến và Lê thị. Đền thờ lập gần Vạn-kiếp".
Tra trong Hải-dương tỉnh thần tích, tôi thấy chép: làng Khê-khâu, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương có đền thờ ba vị thần thành hoàng là:
- Linh-quang hộ quốc Bảo-cảnh hùng uy bệ hạ, anh linh đại vương húy Trần Hiến-Đức.
Chương trước | Chương sau