XtGem Forum catalog
Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe


Tác giả:
Đăng ngày: 15-07-2016
Số chương: 23
5 sao 5 / 5 ( 11 đánh giá )

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe - Chương 8

↓↓
Mike Martin đến mộ Able Seaman Shepton ở nghĩa địa Sulaibikhat vào ngày đầu tiên của tháng Mười và phát hiện tin nhắn từ Ahmed Al-Khalifa. Anh không ngạc nhiên lắm. Nếu Abu Fouad đã nghe nói về anh, thì anh cũng có thể nghe nói về sự tăng lên không ngừng và phát triển của phong trào kháng chiến Kuwait và ánh sáng dẫn đường bí ấn của nó. Rằng cuối cùng họ phải gặp nhau có lẽ là điều không thể tránh khỏi.Trong sáu tuần lễ, vị thế của các lực lượng chiếm đóng của Iraq đã thay đổi rất nhiều. Trong cuộc xâm lấn của mình họ đã làm ào ào: và họ đã bắt đầu chiếm đóng với sự tự tin dâng cao. được bảo đảm rằng sự trú ngụ ở Kuwait có thể không có ý nghĩa như là một sự chinh phục. Sự ảo tưởng đã rất dễ dàng và có lợi, niềm vui phá huỷ, và sự sử dụng phụ nữ để giải trí.


Kuwait, dù sao đi nữa, cũng là một con bồ câu béo chuẩn bị cho bữa ăn. Nhưng trong sáu tuần, con bồ câu đã bắt đầu mổ và cào Hơn một trăm lính Iraq và tám sĩ quan đã hoặc mất tích hoặc bị tìm thấy đã chết. Những sự biến mất có thể không phải lúc nào cũng có thể giải thích bằng sơ sảy. Lần đầu tiên, các lực lượng chiếm đóng đã trải nghiệm nỗi sợ hăi.Các sĩ quan không còn dám dạo chơi với chiếc xe riêng của mình mà phải có một xe chở đội hộ vệ đi kèm. Các toà nhà đại bản doanh phải được canh gác ngày cũng như đêm, khiến các sĩ quan Iraq đã mất ngủ vì bị gọi dậy nhiều.


Đêm trở thành quãng thời gian không thể đi đâu hết. trừ khi di chuyển theo đội đông người. Các đội gác đường ẩn sâu vào trong trại của mình khi đêm tối buông xuống. Và mìn vẫn cứ nổ, những chiếc xe nổ tung cháy ầm ĩ hay dược nhận về với máy móc hỏng hết cả, những quá lựu đạn vẫn vung ra, và những người lính biến mất với cổ họng bị cứa đứt thành lỗ.Sự kháng cự dâng cao đã buộc hội đồng chỉ huy tối cao phải thay Quân đội Nhân dân bằng các lực lượng đặc biệt. các đội quân chiến đấu tinh nhuệ luôn đứng ớ tuyến đầu trong trường hợp người Mỹ tới. Vào đầu tháng Mười với Kuwait không phải là, như tiếng vọng của câu nói của Churchill, sự bắt đầu của cái kết cục, mà là kết cục của cái bắt đầu.


Martin đã không có cách nào để trả lời bức thông điệp của Al-Khalifa khi anh đọc nó trong một vựa lúa, do đó cho đến ngày hôm sau anh mới đặt câu trả lời của mình vào đó. Anh đồng ý gặp, anh nói, nhưng chỉ với những điều kiện của anh. Để lợi dụng đêm tối nhưng để tránh giờ thiết quân luật vào 10 giờ, anh hẹn gặp vào lúc bảy giờ rưỡi . Anh cho địa diểm chính xác để Abu Fouad có thể đỗ xe của mình và khoảng rừng nhỏ nơi họ có thể gặp nhau. Địa điểm anh ấn định nằm ở quận Abrak Kheitan, rất gần với đường quốc lộ từ thành phố đi sân bay giờ đang bị chiếm giữ và không hoạt động.

bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


Martin biết nó là một khu vực xây bằng đá theo cổ truyền những ngôi nhà với mái ngói bằng. Trên một trong số những mái nhà đó anh có thể ngồi đợi hai giờ đồng hồ trước cuộc gặp để xem liệu viên sĩ quan người Kuwait có bị theo đuôi và bị ai theo nếu có: các vệ sĩ của chính ông ta hay là người Iraq. Trong một môi trường đầy thù địch như thế này, viên sĩ quan SAS vẫn tự tin vào trận.Anh chẳng hề biết gì về quan niệm của Abu Fouad về an toàn và đã không được chuẩn bị là ông ta kinh khủng đến thế. Anh ra cuộc hẹn cho đêm đó ngày mồng 7 và để lại câu trả lời giữa tấm bia mộ. Ahmed Al-Khalifa lấy nó vào mồng 4.


Tiến sĩ John Hipwell chưa từng bao giờ bị gọi trong một cuộc trò chuyện thông thường đến thế đối với một nhà vật lý nguyên tử, để lại nhà khoa học đang làm việc trong sự an toàn chặt chẽ của Tổ chức Nghiên cứu Vũ khí Hạt nhân ở Aldermaston vẽ ra những thứ vũ khí plutonium cho những hoả tiển Trident sắp được ra đời.Một người quan sát thoáng qua sẽ cho rằng ông là một nông dân chất phác của Home Counties, hơn nữa còn bận rộn tính toán ở phiên chợ quê chứ không phải đang giám sát những cái đĩa khủng khiếp chứa chất plutonium trong vàng ròng.


Mặc dù thời tiết vẫn còn dịu khi Hipwell lại xuất hiện trở lại trước Hội đồng Medusa, ông đã mặc, như vào tháng Tám. chiếc quần soóc kẻ ô vuông, ca vát bằng len, và áo jacket tweed. Không đợi được hỏi, ông đã dùng hai bàn tay hồng hào to tướng nhồi và bập cái tẩu dài thứ thuốc lá nặng để bắt đầu báo cáo của mình. Ngài Paul Spruce dí sát cái mũi nhọn của mình vẻ kinh tởm và bật máy điều hoà nhiệt độ để tránh mùi.


- Rồi, thưa các ngài, tin tốt là người bạn Saddam Hussein của chúng ta không có bom nguyên tử có thể dùng được. Chưa có đâu, còn lâu cơ. Tiến sĩ Hipwell nói. như là biến mất vào làn khói màu xanh nhợt nhạt.


Ngừng một chốc trong khi ông rít một hơi thuốc. Terry Martin thấy vui, nếu bạn mạo hiểm hít vào người một liều thứ khí plutonium chết người mỗi ngày, thì cái tẩu cũ kỹ kia đúng là chẳng hề mùi mẽ gì hết. Tiến sĩ Hipwell thoáng liếc vào các ghi chép của mình.


- Iraq đã trên con đường làm quả bom nguyên tử cho riêng mình từ giữa những năm 1970, khi Saddam Hussein thực sự lên nắm quyền. Có vẻ như đó là nỗi ám ảnh của ông ta. Trong những năm đó Iraq đã mua một lò phản ứng hạt nhân nguỵên chiếc từ Pháp -cái đã không bị Hiệp ước loại trừ hạt nhân năm 1968 ngó ngàng dến vì nguyên nhân hợp lý đó.


Ông hài lòng liếm và rít một hơi thuốc nữa. Lại ngó những giấy tờ của mình.


- Tha lỗi cho tôi. ngài Paul nói. Cái lò phản ứng đó có phải là cho mục đích sản xuất điện không?


- Có vẻ là như thế. Hipwell nhất trí. Hoàn toàn là bịa đặt. dĩ nhiên rồi, và nước Pháp cũng thừa biết điều đó. lraq có trữ lượng dầu lửa lớn thứ ba thế giới. Họ có thê có một trạm sản xuất năng lượng chạy dầu với gía rẻ.


Không, vấn đề là cung cấp lò phản ứng hạt nhân với chất uranium làm nghèo, gọi là bánh vàng hay caramel, thế là có thể thuyết phục người ta bán nó đi.Sau khi sử dụng trong một lò phản ứng, cái sản phẩm cuối cùng sẽ là chất plutonium.Có những cái gật đầu xung quanh bàn. Mọi người đều biết rằng lò phản ứng hạt nhân của Anh tại Sellafield tạo ra điện cho năng lượng và làm ra chất pluto và chuyển đến Hipwell theo yêu cầu của ông ta.


- Thê là người lraq vào việc. Hipwell nói. Đội đầu tiên trong số các đội biệt kích của họ đã gỡ cái turbine khổng lồ ở Toulon trước khi nó được đưa xuống tàu, đấy là dự án hai năm trước đây. Rồi vào năm 1981, khi các nhà máy Osirak 1 và 2 quý giá của Saddam chuẩn bị bắt đầu đi vào hoạt động, các máy bay ném bom của lsrael bay vào và ném bom. Kể từ đó: Saddam chưa bao giờ tiếp tục mua một cái lò hạt nhân nào nữa cả. Sau một thời gian ngắn, ông ta đã thôi không cố nữa .


- Thế quái nào mà ông ta lại làm vậy. Harry Sinclair từ đầu bàn của mình hỏi.


Bởi vì ông ta chuyển hướng: Hipwell nói với một nụ cười rộng: như một người đã giải xong một ô chữ trong một thời gian kỷ lục. Cho đến bây giờ, ông ta đang theo đuổi con đường plutonium. Với thành công ở mức nào đó, dù sao đi chăng nữa. Nhưng không đủ đâu. Chưa đủ.


- Tôi không hiếu. ngài Paul Spruce hỏi. Đâu là khác biệt giữa một quả bom nguyên tử dựa trên plutonium và một quả uranium?


- Uranium thì đơn giản thôi. nhà vật lý trả lời. Xem này. có nhiều chất phóng xạ có thể sử dụng cho phản ứng dây chuyền. nhưng với quả bom nguyên tứ đơn giản, nền tảng, có tác dụng của các ông thì uranium là chìa khoá đấy. Đó là hướng của Saddam kể từ sau 1982 - một quả bom dựa trên uranium cơ bản. Ông ta chưa có được nó, nhưng ông ta vẫn thử, và một ngày nào đó sẽ có được thôi.


Hipwell ngồi xuống với một tiếng thở, như là ông đã tạo ra sự sáng tạo đầu tiên huyền bí. Cũng giống như phần lớn những người ngồi xung quanh bàn. Spruce vẫn còn rất lúng túng.


- Nếu ông ta có thể mua uranium đó cho cái lò phản ứng đã bị phá huỷ của mình, thì tại sao ông ta không làm một quả bom với nó? ông hỏi.


Hipwell chồm lên câu hỏi như một người nông dân lên một món lợi lớn.


- Có nhiều loại uranium khác nhau lắm, ông bạn thân mến ạ. Cái loại đấy buồn cười lắm, uranium ấy. Rất hiếm. Từ một nghìn tấn quặng uranium, ông chỉ có thể thu được một khối bằng một cái hộp xì gà mà thôi. Bánh vàng. Nó được gọi là uranium tự nhiên, với số nguyên tố là 238. Ông có thể chạy một lò phản ứng công nghiệp với chừng ấy, nhưng không làm được một quả bom đâu. Chưa đủ độ tinh khiết. Để làm một quả bom ông cần có số nguyên tố nhẹ hơn, uranium 235.


- Thế làm thế nào để có được nó? Paxman hỏi.


- Nó nằm ở trong bánh vàng ấy. Trong cái khối cỡ một hộp xì gà đó có đủ uramum 235 để dán dưới một cái móng tay mà chẳng hề hấn gì hết cả. Quỷ quái là làm thế nào để tách được chúng ra. Nó được gọi là tách nguyên tố. Rất khó, rất kỹ thuật, rất đắt, và rất lâu.


- Nhưng ông nói lraq đã có được nó rồi, Sinclair lưu ý.


- Sẽ có nhưng giờ thì chưa, Hipwell nói. Chỉ có một cách khả thi để làm trong và lọc được bánh vàng cho chín mươi phần trăm tinh khiết cần thiết. Nhiều năm trước, trong kế hoạch Manhattan, các đồng hương của ông đã thử rất nhiều phương pháp. Họ có kinh nghiệm lắm đấy chứ? Ernest Lawrence thử một cách, Robert Oppenheimer thử cách khác.


Trong những ngày đó họ đã sử dụng cả hai phương pháp với tốc độ khẩn trương và đã tạo ra đủ uranium 235 để chế tạo Little Boy.


- Sau chiến tranh phương pháp ly tâm được phát minh và dần được hoàn thiện. Giờ đây chỉ có phương pháp này được sử dụng. Nói về nền tảng, ông nhét quặng vào một thứ gọi là một máy ly tâm, nó sẽ xoáy nhanh đến nỗi toàn bộ quá trình được thực hiện trong chân không. Dần dần những nguyên tố nặng hơn, cái mà ông không muốn, bị rơi ra ngoài cái lò tâm và nát ra. Cái còn lại là một ít chất đó tinh khiết hơn là khi ông bắt đầu. Chỉ có một tí chút thôi. Ông phải làm đi làm lại việc đó hàng nghìn tiếng đồng hồ, chỉ để có được một tí ti uranium đủ cấp để làm bom với kích thước chỉ bằng cái tem thư.


- Nhưng ông ta sẽ làm thế chứ ? Ngài Paul nằn nì.


- Đúng vậy. Đang làm nó từ khoảng một năm nay. Những cái lò ly tâm đó... để tiết kiệm thời gian chúng ta nối chúng lại thành các dãy, gọi là các tầng. Nhưng ông cần hàng nghìn cái máy ly tâm đó để tạo được một tầng.


- Nếu họ đã lao vào đó kể từ năm 1982, thì tại sao đến giờ vẫn chưa có? Terry Martin hỏi.


- Các ông không đi vào cửa hàng bán đồ sắt và mua được một cái máy ly tâm chạy bằng gas được đâu, Hipwell chỉ ra.


Đầu tiên họ đã thử nhưng thất bại - các tài liệu cho thấy điều đó. Kể từ năm 1985 họ đã mua các linh kiện để dựng lên cái của chính họ. Họ có khoảng 500 tấn bánh vàng uranium nguyên thuỷ, một nửa trong số đến từ Bồ Đào Nha. Họ mua phần lớn công nghệ ly tâm từ Tây Đức.


- Tôi nghĩ Tây Đức đã ký các thoả thuận quốc tế đầy đủ hạn chế công nghệ sản xuất bom nguyên tử rồi cơ mà, Paxman phản đối.


- Có thể họ đã làm vậy. Tôi không thể nào biết được về chính trị, nhà khoa học nói. Nhưng họ đã có được các mẩu và các linh kiện từ mọi nơi. Các ông cần thép tinh vi, thép siêu cứng, tàu chống rung, van đặc biệt, các lò đun nhiệt độ rất cao gọi là các lò "sọ người" bởi vì trông chúng giống như vậy, cộng với các bơm chân không và dưới đó - đó là cả một công nghệ dây chuyền đấy. Một ít thôi, rồi kỹ năng nữa, đến từ Tây Đức.


- Cho tôi hỏi thẳng nhé. Sinclair nói, liệu Saddam đã có các máy ly tâm tách nguyên tố hoạt động được chưa?


- Có rồi, có một tầng. Nó đã vận hành chừng một năm nay. Và một cái khác nữa sẽ sớm được đưa vào sử dụng nay mai.


- Thế ông có biết tất cả những thứ thối tha đó ở đâu không?


- Nhà máy có tầng ly tâm ở một nơi có tên Taji - ở đây này. Nhà khoa học chìa ra một bức ảnh chụp từ trên không ra trước mặt người Mỹ và khoanh vùng một loạt những toà nhà công nghiệp.


Cái tầng dường như đang hoạt động ở ngầm dưới đất đâu đó không xa cái lò hạt nhân cũ của Pháp ở Tuwaitha lắm, cái lò mà họ gọi là Osirak. Tôi không biết liệu các ông có thể tìm thấy nó với một cái máy bay ném bom không nữa - chắc chắn nó ở dưới đất và được nguỵ trang rất kỹ.


- Thế còn cái tầng mới?


- Không biết gì hết cả. Hipwell nói. Có thể ở bất cứ nơi đâu


- Có khả năng ở một chỗ khác chăng, Terry Martin đề xuất Người lraq thường tiến hành nhân đôi và giả mạo không bao giờ để tất cả trứng vào trong cùng một giỏ để rồi người lsrael thổi bay đi tất cả.Sinclair càu nhàu.


- Sao ông có thể chắc- ngài Paul hỏi- rằng Saddam Hussein không thể đã có được quả bom đó?


- Thực thế, nhà vật lý nói. Đó là vấn đề thời gian. Ông ta không có đủ thời gian. Để cho một quả bom nguyên tử cơ bản nhưng hữu dụng ông ta cần 30 đến 35 kg uranium 235 tinh khiết. Mới chỉ bắt đầu công việc được có một năm, dù có được cái nếp vận hành suốt 24 giờ một ngày - cái đó là không thể - thì một chương trình khó đến thế cần ít nhất 12 tiếng cho mỗi ly tâm. Ông cần có 1000 lần xoáy để có được từ không phần trăm đến chín mươi ba phần trăm tinh khiết đòi hỏi. Cần 500 ngày quay. Nhưng rồi khi nó đã sạch, phục vụ được, thì còn phải bảo trì, rồi còn hỏng hóc nữa chứ. Ngay cả với một nghìn cái lò ly tâm vận hành trong một cái tầng bây giờ cũng như trong năm vừa qua, ông cũng phải cần đến năm năm. Đưa thêm một tầng nữa vào năm tới - có thể rút ngắn xuống còn có ba năm.


- Thế ông ta sẽ không có 35 kg cho đến 1993 hay sao? Sinclair chèn vào.


- Không, ông ta không thể.


- Một câu hỏi cuối cùng: nếu ông ta có được uranium, thì mất bao nhiêu lâu mới có được một quả bom nguyên tử?


- Không lâu đâu. Chỉ vài tuần thôi. ông thấy đấy, một nước quan tâm đến việc làm ra quả bom cho riêng mình sẽ có khía cạnh cơ khí phát triển song song. Cơ khí, bom không phải tất cả đều phức tạp, miễn là ông biết ông đang làm gì. Và Jaafar cũng thế - ông ta sẽ biết mất bao lâu để xây dựng một cái và kích hoạt nó. Mẹ kiếp, chúng tôi đã đào tạo ông ta ở Harwell.


Nhưng vấn đề là, chỉ tính riêng về thời gian thôi, Saddam Hussein cũng không thể có đủ uranium đâu. 10 kg, thế đã là quá rồi ông ta cần ít nhất là ba năm nữa cơ


Tiến sĩ Hipwell được cảm ơn vì những tuần lễ làm phân tích, và cuộc họp kết thúc.Sinclair có thể quay trở về Đại sứ quán của mình và viết ra những ghi chép lằng nhằng, những cái sẽ quay trở về Mỹ với mật mã rất khó dò. Ở đó chúng có thể được so sánh với các phân tích của các đối tác của nước Mỹ - các nhà vật lý từ các phòng thí nghiệm của Sandia, Los Alamos, và đặc biệt là Lawrence Livermore ở California, nơi trong nhiều năm nay một phần bí mật có tên đơn giản là phòng Z đã giám sát sự mở rộng vững chắc của công nghệ nguyên tử khắp thế giới nhân danh Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc. Mặc dù Sinclair có thể không biết, các kết quả của các đội người Anh và người Mỹ có thể khẳng định lẫn nhau với một mức độ khá cao.


Terry Martin và Simon Paxman rời khỏi cuộc họp đó và đi dạo qua Whitehead trong buổi hoàng hôn đầu tháng Mười.


- Phải nhắc lại, Paxman nói, là ông già Hipwell khá hấp dẫn đấy. Có vẻ như là người Mỹ nhất trí. Rằng lão con hoang đó đã đang ở gần quả bom nguyên tử của hắn rồi. Chẳng khác gì một cơn ác mộng.


Họ chia tay nhau ở góc phố, Paxman đi qua sông Thames để đến Nhà Thế kỷ, Martin đi qua quảng trường Trafalgar và theo ngõ St. Martin để đến phố Gower.Biết được cái mà Iraq có, hay thậm chí có khả năng có, là một việc. Tìm chính xác ở đâu có chúng lại là chuyện khác hẳn. Việc chụp hình vẫn tiếp tục. Những chiếc KH-11 và KH- 12 vẫn bay qua thiên đường trong nhịp điệu vĩnh cửu của mình, chụp lại những gì chúng nhìn thấy trên đất Iraq dưới chân chúng.


Tháng Mười, một thiết bị khác đã được đưa vào bầu trời, một máy bay trinh sát Mỹ bí mật đến nỗi đồi Capitol cũng chẳng hề hay biết. Được mang biệt danh Aurora, nó bay bên rìa không gian, đạt đến tốc độ của Mach 8, gần 5000 dặm môi giờ, mang theo đạn dược - đó là hiệu ứng ramjet - rất xa các ra đa của Iraq hay những quả hoả tiễn đối không. Thậm chí cả công nghệ tuyệt vời của Liên Xô cũng không dò được Rạng Đông, cái đã thay thế Chim Đen huyền thoại SR- 71 .


Thật mỉa mai, trong khi Chim Đen được bỏ ra khỏi phi vụ thì một cái khác thậm chí còn già lão hơn "lòng tin cũ" lại bay trên bầu trời Iraq mùa thu đó. Đã gần 40 năm tuổi, có biệt hiệu Bà Rồng. chiếc U-2 vẫn bay và vẫn chụp hình. Quay trở lại năm 1960 khi Gary Powers bị bắn hạ trong một chiếc U 2 trên bầu trời Sverdlovsk, Xibêri, và chính chiếc U-2 này đã phát hiện những tên lửa đầu tiên của Liên Xô được lắp đặt ở Cu ba trong mùa hè năm 1962, thậm chí ngay cả Oleg Penkovsky cũng cho chúng là vũ khí tấn công chứ không phải phòng vệ, do đó đã thổi bay các phản đối nực cười của Khrushchev và chỉ ra những mầm mống của sự phá huỷ thực tế của chính mình.


Chiếc U-2 của năm 1960 đã được trang bị lại như một "máy nghe" hơn là một "máy nhìn' và được thiết kế lại TR-l, mặc dù nó vẫn chụp ảnh. Tất cả những thông tin này, từ các giáo sư và các nhà khoa học, các nhà phân tích và phiên dịch, những người theo dõi và những người nhìn, nhưng người phỏng vấn và những người tìm tòi, xây dựng một hình ảnh về Iraq thông qua mùa thu năm 1990, và một bức tranh đầy đe doạ đã có.Từ hàng nghìn nguồn tin khác nhau cuối cùng cũng được xâu chuỗi lại vào một căn phòng rất bí mật hai tầng dưới đại bản doanh không lực Arập Xêut trên đường Sân bay cũ. Căn phòng, nằm dưới con đường từ đó các quan chức quân sự ngồi hội họp và thảo luận về những kế hoạch không được phép của mình (bởi Liên Hợp Quốc) với sự xâm chiếm của Iraq, đã được gọi đơn giản là "Lỗ Đen".


Chính tại Lỗ Đen các chuyên gia lập kế hoạch Anh và Mỹ rút ra từ ba cơ quan của mình và từ mọi cấp bậc, chỉ vào các địa điểm có thể bị tiêu huỷ. Cuối cùng, họ có thể tạo nên một bản đồ không chiến của tướng Chuek Horner. Nó chứa đựng 700 mục tiêu. 600 là mục tiêu quân sự - theo nghĩa là các trung tâm chỉ huy. cầu, sân bay, kho đạn, các hầm chứa thuốc nổ, các địa điểm có tên lửa, và các trại tập trung quân lính. Một trăm mục tiêu khác là những cái có liên quan đến các vũ khí của huỷ diệt, toàn bộ - các thiết bị nghiên cứu, các nhà máy sản xuất theo dây chuyền, các phòng thí nghiệm hoá học, các kho cảng.Tầng ly tâm ở Taji đã được đưa vào danh sách như là một cái gần kề, được biết, vị trí của cái tầng ly tâm ngầm dưới đất ở đâu đó trong khu Tuwaitha.


Nhưng cái nhà máy sản xuất nước đóng chai ở Tarmiya lại không có trong danh sách: Al Qubai cũng không. Không ai biết gì về chúng hết cả.Một bản sao của báo cáo toàn diện do Harry Sinclair lập ở London được mang đến cùng với những báo cáo khác từ nhiều bộ phận của nước Mỹ và ở nước ngoài. Cuối cùng, một tổng hợp của tất cả những nghiên cứu chuyên sâu đó đã đến được với một nhóm rất nhỏ và rất kín đáo của Bộ Ngoại giao gọi là bộ não, chỉ được một nhóm rất hạn chế ở Washington như Tình báo Chính trị và Nhóm Phân tích biết đến. PIAG là một kiểu trung tâm phân tích các vấn đề ngoại giao và sản xuất ra các bản báo cáo tuyệt đối không dành cho sự tiêu dùng của quần chúng. Trên thực tế, đơn vị chỉ trả lời cho Bộ trưởng Ngoại giao, thời đó là James Baker.


Hai ngày sau. Mike Martin nằm ngửa trên một mái ngói cho phép anh nhìn toàn bộ phần Abrak Kheitan nơi anh đã hẹn gặp Abu Fouad.Khá chính xác vào giờ đã hẹn, anh nhìn thấy một chiếc xe ôtô đơn độc rời khỏi đường cao tốc Keng Faisal hướng về sân bay và đi vào trong một phố ven đường. Chiếc xe từ từ thả xuôi phố, tách khỏi những chiếc đèn sáng của đường cao tốc và dòng xe cộ, và đi vào trong bóng tối.


Anh nhìn thấy chiếc xe dừng ở chỗ anh đã miêu tả trong bức thông điệp gửi Al-Khalifa. Hai người đi ra, một người đàn ông và một phụ nữ. Họ nhìn quanh, kiếm tra không chiếc xe nào đi theo từ đường cao tốc, và bước đi chầm chậm, đi đến chỗ nơi một đám cây quây lấy một khoảnh đất trống.Abu Fouad và người đàn bà đã được cho biết là phải đứng chờ nửa giờ đồng hồ. Nếu người Bedou không xuất hiện, họ phải rời đi và quay trở về. Họ đã chờ đến 40 phút trước khi quay trở lại chiếc xe. Cả hai đều bực tức.


- Hắn ta chắc đã bị tóm rồi, Abu Fouad nói với người đồng hành. Một đội lraq, có thể lắm. Ai biết? Dù sao, mẹ kiếp. Tôi sẽ lại phải bắt đầu lại.


- Tôi nghĩ ông thật điên khi đi tin hắn ta. Người phụ nữ nói. ông chẳng hề biết hắn ta là ai hết cả.


Họ nói rất ngắn gọn, chỉ huy kháng chiến Kuwait nhìn quanh phố để chắc không có tên lính Iraq nào xuất hiện khi ông


- Hắn ta thành công và tinh quái, và hắn ta làm việc như một kẻ chuyên nghiệp ấy. Đó là mọi thứ tôi cần phải biết. Tôi muốn hợp tác với hắn, nếu hắn ta sẵn lòng.


- Thế thì tôi chẳng có gì chống lại điều đó hết cả.


Người phụ nữ bật ra một tiếng kêu khẽ. Abu Fouad nhảy dựng lên trên chiếc ghế của mình.


- Đừng quay ngang ngửa. Chỉ nói chuyện thôi. giọng nói từ ghế sau vang lên. Từ gương chiếu hậu người Kuwait chỉ nhìn thấy lờ mờ chiếc keffiyeh Bedouin và bắt được mùi hôi. Ông thở phào nhẹ nhõm.


- Anh di chuyển êm thật dấy. Bedou ạ.


- Không cần gây tiếng động. Abu Fouad ạ. Nó sẽ làm bọn lraq để ý. Tôi không thích thế, trừ khi tôi đã sẵn sàng.


Răng Abu Fouad nảy lên dưới chòm ria rậm.


- Tốt lắm. Bây giờ chúng ta đã tìm được nhau rồi. Thì nói chuyện vậy. Nhân tiện, tại sao lại trốn vào trong xe?


- Nếu cuộc gặp này là một cái bẫy đối với tôi, thì những lời đầu tiên của ông khi quay về xe sẽ khác nhiều.


- Tự để lộ...


- Tất nhiên.


- Rồi sao


- Ông có thể chết.


- Hiểu rồi.


- Ai đi cùng ông thế Tôi không hề nêu là có người đi cùng cơ mà.


- Anh hẹn gặp. Chính tôi cũng tin anh cơ mà. Cô ấy là một đồng đội đáng tin. Asrar Qabandi.


- Rất tốt. Hân hạnh, cô Qabandi. ông muốn nói về cái gì nào?


- Về súng ống, Bedou ạ. Những khẩu súng máy Kalashnikov, lựu đạn hiện đại, Semtex-H. Người của tôi có thể làm tốt hơn với những cái đó.


- Người của ông sẽ bị bắt, Abu Fouad ạ. Mười người đã bị vây trong một ngôi nhà bởi cả một đội lính bộ binh Iraq dưới sự chỉ huy của AMAM. Tất cả đều bị bắt. Tất cả đều còn rất trẻ.


Abu Fouad im lặng. Đó là một thảm họạ rất lớn.


- Chín thôi. cuối cùng ông nói. Người thứ mười giả chết và bò trốn đi được. Anh ta bị thương, và chúng tôi đang chăm sóc anh ta. Đó là người đã nói với chúng tôi.


- Nói gì?


- Rằng họ bị phản bội. Nếu anh ta chết, chúng tôi sẽ không thể biết được.


- A, phản bội. Luôn luôn là mối nguy hiểm trong một phong trào kháng chiến. Thế còn kẻ phản bội?


- Chúng tôi biết hắn rồi, tất nhiên. Chúng tôi nghĩ có thể tin hắn được.

Chương trước | Chương sau

↑↑
Em ở đâu - Marc Levy

Em ở đâu - Marc Levy

Giới thiệu: Thủa niên thiếu, họ luôn ở bên nhau. Với niềm lạc quan của tuổi trẻ,

15-07-2016 10 chương
Vay Tiền

Vay Tiền

Buổi sáng, vợ Bằng Tam hỏi anh ta: - Anh Bằng Tam ơi, đêm qua vợ của em trai anh ở trong

01-07-2016
Hận Thù

Hận Thù

Truyện teen Hận Thù là câu chuyện xoay quanh Hoàng Anh Tuấn - thiếu gia tập đoàn Hoàng Gia

22-07-2016 16 chương
Món Nợ Ngọt Ngào

Món Nợ Ngọt Ngào

Một câu chuyện tình yêu mà chẳng hề có sự bảo vệ che chở của người con trai dành

23-07-2016 32 chương
Thần gió và mặt trời

Thần gió và mặt trời

Gió và Mặt trời đã tranh chấp dữ dội rằng ai mạnh hơn. Bỗng nhiên họ thấy một

24-06-2016
Những ô cửa màu xanh

Những ô cửa màu xanh

Những phút giây ngắn ngủi ấy tôi đã kịp nhận ra mình là một đứa con tồi, đã rất

30-06-2016
Người đàn bà bỏ đi

Người đàn bà bỏ đi

Bố đã từng yêu thương mẹ và đến bây giờ khi mẹ đã bỏ đi, bố vẫn không ngừng

26-06-2016
Không có tiết canh mèo

Không có tiết canh mèo

- Sao cơ ạ? – Tớ hét lên hoảng hốt – Chú sẽ giết con mèo này á? *** Tớ thấy bên

30-06-2016