Lại mất 5 dặm lang thang nữa, bị chậm lại bởi lũ dê, nhưng chúng cũng đáng giá bởi đã hai lần anh nhìn thấy bọn lính đang nhìn chằm chằm vào anh từ con đường cho đến khi anh đi khuất. Nhưng chúng không làm gì cả.
bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Anh tìm thấy wadi bên phải vào lúc mặt trời đang xuống, nhận ra những dấu hiệu để lại trên các tảng đá gần đó, và anh đứng đó cho đến khi ánh sáng lóe lên trước khi bắt đầu tắt lịm. Những con dê sung sướng đi dạo nhởn nhơ.
Nó vẫn còn ở đó, được gói vào trong cái túi nylông, một chiếc Yamaha vượt địa hình 125 phân khối, toàn thân màu đen, với những cái giỏ để đựng thêm các bình xăng dự trữ. Cái la bàn được chôn ở đó, cộng thêm một khẩu súng ngắn và đồ ăn.
Anh gài khẩu súng tự động vào bên mình. Kể từ lúc đó, không còn vấn đề gì để sợ hãi nữa; không người nông dân Iraq nào có thể chạy loại máy móc này. Nếu anh bị bắt chợt, anh có thể bắn súng và trốn thoát.
Anh lái xe suốt đêm, cố tận dụng tối đa thời gian những chiếc Land-Rover không thể đi được. Với bụi cát anh có thể tăng tốc băng qua những chỗ bằng phẳng và lái chiếc xe về những chỏm đá của các wadi, sử dụng động cơ và chân để đẩy.
Nửa đêm anh đổ thêm xăng và dừng lại uống nước ăn vài viên đạm để trong cái túi. Rồi anh lái tiếp về phía nam để đến biên giới Arập Xêut.
Anh không hề biết khi nào thì vượt qua biên giới. Đó là cả một vùng đất hoang vu không dấu hiệu gì đặc biệt toàn đá và cát, hang hốc và đá vụn, và với chuyến đi hình zigzag anh đang thực hiện, không có cách nào biết được anh đã đi được bao nhiêu dặm đường.
Anh cho rằng mình đã sang được Arập Xêut khi anh đến Tapline Road, con đường cao tốc duy nhất ở vùng đó. Địa hình trở nên dễ đi hơn, và anh đi được tới 20 dặm một giờ khi anh nhìn thấy chiếc xe.
Anh không mệt mỏi, anh có thể phản ứng nhanh hơn, nhưng anh đang cảm thấy tê dại và suy nghĩ cũng chậm chạp đi.
Bánh trước chiếc xe lao vào dây thép, và anh ngã ra, rơi xuống cho đến khi chạm lưng xuống. Khi mở mắt nhìn lên anh nhìn thấy một khuôn mặt đang đứng phía trên và một họng súng thép.
- Bouge pas, mec. (Đừng có động đậy, anh bạn)
Không phải tiếng Arập. Anh cố vận động trí óc mệt mỏi của mình. Cái gì đó như là đã lâu lắm rồi. Haileybury, một thầy giáo kém may mắn nào đó của trường học đã cố dạy anh những thứ phức tạp rối rắm của tiếng Pháp.
- Ne tirez pas, (Đừng bắn) anh nói chầm chậm. Je suis Anglais. (Tôi là người Anh)
Chỉ có ba trung sĩ trong đội quân lê dương Pháp, và một trong số đó tên là Mccullin.
- Anh đang ở đâu ấy à? Anh ta nói bằng tiếng Anh. Rồi, anh tốt hơn là đừng có đâm vào xe chỉ huy chứ. Và tôi sẽ phải sửa pit tông thôi, nếu anh không có ý kiến gì.
Đội tuần tra Lê dương đang ở phía tây của vị trí được chỉ định của họ trong hàng lối Liên quân, đang đi kiểm tra Tapline Road để ngăn chặn những kẻ xâm nhập từ Iraq có thể có. Với trung sĩ Mccullin làm thông ngôn, Martin giải thích cho viên trung uý người Pháp rằng anh trở về từ một công vụ bên trong Iraq.
Điều này có vẻ dễ chấp nhận đối với đội quân Lê dương: làm việc sau các trận tuyến là một trong số các chuyên môn của họ. Tin tốt lành là họ có điện đàm.
Người phá khoá kiên nhẫn đợi trong bóng tối của phòng để chổi qua hết ngày thứ ba và cho đến đêm. Anh ta nghe thấy nhiều nhân viên vệ sinh nam đi vào phòng vệ sinh, làm việc thúc bách, và rời đi.
Qua tường anh có thể nghe thấy đôi khi thang máy kêu lạo xạo đi lên đi xuống. Anh ngồi lên trên cái cặp của mình, lưng dựa vào tường, và đôi khi liếc nhìn chiếc đồng hồ dạ quang của mình để xem giờ giấc trôi qua.
Khi quá năm giờ hơn gần sáu giờ anh nghe tiếng các nhân viên đi ra hành lang để về nhà. Anh biết là vào sáu giờ người gác đêm sẽ đến, viên lục sự sẽ tiếp anh ta, sau đó sẽ kiểm tra mọi nhân viên đi qua bàn của mình theo danh sách trong ngày.
Khi người lục sự đi về sau sáu giờ, người gác đêm sẽ đóng cửa trước lại và bật hệ thống còi báo động. Rồi anh ta sẽ ngồi xem chiếc vô tuyến xách tay luôn mang theo hàng tối và xem các chương trình trò chơi cho đến khi phải đi kiểm tra vòng một.
Theo đội yarid, ngay cả các nhân viên vệ sinh cũng bị giám sát. Họ chỉ làm việc các nơi chung - sảnh, cầu thang, và phòng vệ sinh - trong các đêm thứ hai, thứ tư, và thứ sáu, nhưng vào đêm thứ ba người phá khoá có thể ở đó mà không vấn đề gì Các ngày thứ bảy họ trở lại để lau dọn các phòng làm việc dưới sự giám sát của người lục sự, người lúc nào cũng sẽ kè kè bên cạnh họ.
Thói quen của người gác đêm có vẻ như bao giờ cũng vẫn thế. Anh ta đi kiểm tra toà nhà ba lần, kiểm tra mọi cánh cửa, vào mười giờ tối, hai giờ sáng và năm giờ sáng. Khoảng thời gian giữa thời điểm anh ta đến và lần đi kiểm tra đầu tiên, anh ta xem vô tuyến và ăn món súp mang theo. Trong khoảng thời gian trong dài nhất, giữa mười giờ và hai giờ, anh ta bật một chiếc đồng hồ báo thức để báo cho anh ta dậy vào lúc hai giờ sáng. Người phá khoá đợi để thực hiện vụ ăn cắp của mình trong khoảng thời gian này.
Anh ta đã từng tận mắt nhìn thấy phòng làm việc của Gemuetlich và cánh cửa quan trọng dẫn vào đó. Cánh cửa đó bằng gỗ dày nhưng thật may là không hề gắn thiết bị báo động. Cửa sổ thì có báo động, và anh ta đã nhận ra những sợi dây nhỏ giữa cái hộp và cái thảm.
Đúng mười giờ anh ta nghe thấy tiếng thang máy đi lên trên, nghĩa là người gác đêm bắt đấu vòng đi kiểm tra đầu tiên của mình các cánh cửa phòng làm việc, bắt đầu từ tầng trên cùng và đi xuống từng tầng một. Nửa tiếng đồng hồ sau, người đàn ông đứng tuổi đó kết thúc, thò đầu vào phòng vệ sinh nam, bật đèn lên để kiểm tra cái cửa sổ có chấn song và hệ thống báo động, đóng cửa lại, và quay trở về bàn của mình với trò giải trí ưa thích. Tại đó anh ta chọn xem chương trình trò chơi muộn.
Vào lúc 10 giờ 45 người phá khoá, trong bóng tối mịt mùng, rời khỏi phòng vệ sinh và đi lên thang gác cho đến tầng bốn.
Cửa phòng làm việc của Herr Gemuetlich làm anh ta mất đến mười lăm phút mới mở được. Cuối cùng khoá cũng quay, và anh ta bước vào trong phòng. Mặc dù anh ta đeo một dải băng trên đầu có gắn một chiếc đèn pin nhỏ xíu, anh vẫn phải lấy một cái khác, có vòng sáng toả rộng hơn để quan sát toàn bộ căn phòng. Trong ánh sáng của cái đèn, anh ta có thể tránh được hai sợi dây và lại gần cái bàn từ phía không có bảo vệ. Rồi anh ta tắt nó đi và chỉ còn dựa vào ánh sáng của cái đèn nhỏ như cây bút.
Khoá của ba ngăn kéo trên cùng không thành vấn đề - chỉ là những ngăn nhỏ bằng đồng già cả hàng trăm năm nay. Khi ba ngăn tủ đó đã được mở, anh ta thò tay vào và bắt đầu tìm kiếm một cái chốt, một cái nút hay lẫy. Không có gì hết cả. Phải đến một tiếng sau, ở đằng sau cái ngăn thứ ba ở dưới phía bên phải, anh ta mới tìm thấy. Khi anh ta nhấn vào đó, một tiếng cách nhỏ của ổ khoá vang lên, và một dải phía dưới của cái chân bàn mở ra chừng một cm.
Cái khay bên trong khá là hẹp, chỉ nhỏ hơn một inch, nhưng cũng đủ cho hai tờ giấy mỏng. Đó là bản sao của bức thư giao quyền chỉ dành cho các tài khoản dưới sự phụ trách của Gemutlich.
Người đột nhập lấy máy ảnh ra và bấm máy, một thiết bị gồm bốn thanh nhôm giữ cho máy ảnh đứng giữ đúng khoảng cách với tờ giấy bên dưới để có được độ nét tốt nhất.
Tờ giấy trên cùng là một miêu tả phương pháp vận hành của tài khoản do kẻ chỉ điểm mở trước đó vào buổi sáng, nhân danh một người khách hàng bí mật ở Mỹ. Người mà anh ta muốn tìm ở hàng thứ bảy. Số tài khoản đã được biết – Mossad đã chuyển tiền cho tài khoản của Jericho hai năm trước khi người Mỹ tiếp quản ông ta.
Để chắc chắn, anh ta chụp ảnh toàn bộ từ mọi hướng. Sau khi đã quay cái cachette trở lại vị trí ban đầu của nó, anh ta đặt nó lại và khóa lại toàn bộ các ngăn kéo và đi ra, đóng lại cửa căn phòng làm việc sau lưng mình. Vào lúc 1 giờ 10 phút anh ta quay trở lại phòng vệ sinh nam.
Khi ngân hàng mở cửa vào sáng hôm sau, người đột nhập để cho thang máy chạy lên chạy xuống một tiếng đồng hồ, biết rằng viên lục sự không bao giờ cần đi cùng với nhân viên đi vào các văn phòng của họ. Người khách hàng đầu tiên xuất hiện vào lúc 10 giờ 10 phút. Khi thang máy đi lên ngang qua anh ta, người đột nhập rút ra khỏi phòng vệ sinh, rón rén đi đến cuối hành lang, và nhìn xuống cầu thang. Chiếc bàn người lục sự không có ai; anh ta đang ở trên tầng đi theo người khách hàng.
Người đột nhập nhấn một cái chuông hai lần. Trong ba giây cửa trước có tiếng chuông. Người tiếp tân bật máy nói và hỏi:
- Ja?
- Lieferung, một giọng nói từ tốn trả lời. Cô ta nhấn nút mở cửa, và một người đưa hàng to lớn dễ mến đi vào trong hành lang, Anh ta mang đến một bức tranh sơn dầu gói trong một tờ giấy màu nâu và nói:
- Đây này, thưa cô, đã sạch sẽ để treo lại rồi đấy.
Phía sau anh ta cửa đóng lại. Trong khi nó đang đóng lại như thế, một bàn tay chặn nó lại và luồn vào đó một đoạn giấy. Cửa lại mở ra và không đóng được nữa.
Người đưa hàng dựng bức tranh sơn dầu cạnh bàn người tiếp viên. Bức tranh thật lớn, rộng năm fit và cao bốn fít. Nó ngăn cô ta không thể nhìn được về hướng hành lang.
- Nhưng tôi chẳng biết gì về việc này cả - cô ta phản đối.
Cái đầu của người giao hàng thò vào qua mép của bức tranh.
- Thì chỉ cần ký giấy biên nhận thôi mà, thưa cô, anh ta nói, và đẩy vào trước mặt cô ta một cái bảng với mẫu ký nhận.
Trong khi cô ta xem nó, người đột nhập đi xuống các bậc thang bằng đá và đi ra đến cửa.
- Nhưng mà nó nói là Phòng tranh Harzmann cơ mà, cô ta nhận xét.
- Đúng rồi. Ballgasse, số 14.
- Nhưng chúng tôi chỉ là số 8 thôi. Đây là ngân hàng Winkler. Phòng tranh phải đi nữa cơ.
Người giao hàng bối rối xin lỗi và đi. Viên lục sự quay trở lại trên những bậc thang đá. Cô ta giải thích việc vừa xảy ra. Anh ta cau có, quay chiếc ghế của mình về phía hành lang từ chiếc bàn tiếp tân, và lại chúi mũi vào với giấy tờ.
Khi chiếc trực thăng Blackhawk chở Mike Martin về căn cứ không quân ở Riyadh vào giữa ngày hôm đó, thì đã có sẵn tại đó một hội đồng chuẩn bị sẵn để đón anh. Steve Laing có mặt ở đó, cùng với Chíp Barber. Người mà anh không nghĩ mình sẽ gặp là chỉ huy của mình, đại tá Bruce Craig. Trong khi Martin còn ở Baghdad, việc diễu hành của những người SAS ở các sa mạc phía tây Iraq đã tăng lên với đầy đủ cả hai đội bay bên ngoài Hereford. Một cái còn ở lại ở Hereford để làm đội dự bị, đội kia là các đơn vị nhỏ hơn trong các phi vụ huấn luyện khắp thế giới.
- Anh tóm được rồi chứ, Mike? Laing hỏi.
- Phải, thông điệp cuối cùng của Jericho. Không thể gửi được bằng điện đàm.
Anh giải thích ngắn ngọn tại sao và chìa ra một tờ giấy mỏng ghi báo cáo của Jencho.
- Này anh bạn, chúng tôi đã rất lo lắng khi không thể có tin tức gì của anh trong suốt 48 tiếng đồng hồ vừa rồi đấy, Barber nói. Anh đã thực hiện được một chiến tích lớn, thiếu tá.
- Chỉ là một việc thôi mà, thưa các ngài, đại tá Craig nói. Nếu anh đã kết thúc với anh ta, có thể để anh ta quay về chỗ chúng tôi được không?
Laing đang nghiên cứu tờ giấy, dịch tiếng Arập theo cách tốt nhất có thể được. Ông nhìn lên.
- Tại sao lại phải hỏi, tôi cũng nghĩ thế. Với những lời cảm ơn chân thành nhất của chúng tôi.
- Đợi một phút nào, Barber nói. Thế anh sẽ làm gì với anh ta bây giờ hả, thưa đại tá?
- Ô, một cái thùng ở sân bay, thức ăn gì đó...
- Thế thì hãy tìm một ý tưởng tốt hơn đi, Barber nói. Thiếu tá này, thế một miếng bít tết và khoai tây chiên vùng Kansas thì thế nào, một giờ trong phòng tắm hơi, và một cái giường thật êm?
- Với những cái kỳ lưng phải không, Martin cười.
- Đúng. Đại tá, người của anh có một đoàn tùy tùng ở Hyatt dọc theo phố trong suốt 24 tiếng đồng hồ, những người ở nước chúng tôi. Đồng ý không nào?
- Tốt thôi. Thế thì ngày mai gặp lại vào giờ này nhé, Mike, Craig nói.
Trong chuyến đi ngắn về khách sạn dối diện đại bản doanh CENTAF, Martin đưa cho Laing và Barber một bản dịch thông điệp của Jericho. Laing ghi chép chăm chú.
- Điều này có nghĩa là, Barber nói. Các chàng trai phi công sẽ bay tới đó và thổi bay nó đi.
Điều này đòi hỏi Chip Barber kiểm tra lại người nông dân Iraq bẩn thỉu để mặc cho anh ta bộ quần áo đẹp nhất ở Hyatt, và khi anh ta đã mặc xong đồ, Barber rời đi để đến đường tới Hố Đen.
Martin có một giờ của mình để tắm rửa, xông hơi sạch sẽ và sử dụng bọt để cạo râu và gội đầu, và khi anh đi ra, bít tết và khoai tây chiên đã ở trên một cái khay trong phòng khách. Anh đang dùng dở bữa ăn của mình thì bị giấc ngủ xâm chiếm. Anh chỉ kịp lăn vào cái giường êm ái ở phòng bên cạnh và lăn ra ngủ.
Trong khi ngủ, một số việc đã xảy ra. Những thứ quần áo, giày dép, tất vớ mới toe được chuyển đến phòng cho anh.
Tại Vienna, Gidi Barzilai đã gửi các chi tiết cụ thể về tài khoản có đánh số của Jericho cho Tel Aviv, nơi một bản sao tương tự đã được chuẩn bị sẳn với từ ngữ rất chuẩn.
Karim gặp Edith Hardenberg khi cô rời khỏi nhà băng đi về nhà, mời cô đi uống cà phê, và giải thích anh phải trở về Jordan thăm mẹ anh đang bị ốm. Cô chấp nhận lý do đó, nắm tay anh, và bảo anh phải sớm quay trở lại với cô ngay khi nào có thể.
Các mệnh lệnh đã được Hố Đen truyền đi cho căn cứ không quân ở Taif nơi một máy bay do thám TR- 1 đã chuẩn bị sẵn để cất cánh cho một phi vụ ở tận cực bắc Iraq, để chụp thêm các bức ảnh của khu sản xuất vũ khí quan trọng ở As-Sharqat.
Phi vụ được gắn thêm một nhiệm vụ mới với bản đồ mới. đặc biệt dành cho việc đi thăm và chụp ảnh một vùng đất với một dải đồi nằm ở phía bắc Jebal và Hamreen. Khi người chỉ huy đội bay phản đối sự thay đổi đột ngột đó, anh ta được cho biết các lệnh đó được xếp vào loại "bí mật Jeremiah". Sự phản đối liền chấm dứt.
Chiếc TR- 1 cất cánh ngay sau hai giờ, và đến bốn giờ, những bức ảnh đã xuất hiện trên các màn hình trong phòng họp dưới hành lang của Hố Đen.
Hôm đó trời nhiều mây và có mưa ở Jebal, nhưng với ra da hình ảnh mới theo nhiệt, thiết bị ASARSI không sợ mây, mưa, sương mù, tuyết và bóng tối, chiếc máy bay do thám vẫn có được các bức ảnh của mình. Chúng được nghiên cứu khi được đại tá Beatty của USAF và chỉ huy bay Peck của RAF mang tới, đó là hai chuyên gia phân tích hình ảnh do thám giỏi nhất của Hố Đen.
Cuộc họp lập kế hoạch đã bắt đầu vào 6 giờ. Chỉ có 8 người có mặt. Ngồi ghế chủ toạ là đại diện của tướng Horner, cũng có ý nghĩa quyết định tương tự nhưng vui vẻ hơn là tướng Buster Glosson. Hai sĩ quan tình báo, Steve Laing và Chip Barber, có mặt ở đó bởi vì họ là những người biết được mục tiêu và biết từ đâu có lời tiết lộ đó Hai nhà phân tích, Beatty và Peck, được triệu tập để giải thích các chú giải của họ về các bức ảnh vùng đó Và còn có thêm ba sĩ quan, hai người Mỹ và một người Anh, những người có thể ghi chép những sự việc xảy ra và đảm bảo điều đó
Đại tá Beatty khai mạc vấn đề với cái đã trở thành công thức của các cuộc họp.
- Chúng ta đang có một vấn đề, ông ta nói.
- Nói rõ xem nào, vị tướng nói.
- Thưa tướng quân, thông tin cung cấp cho chúng ta một điểm tham chiếu quan trọng. Nhưng đó chưa phải là tham chiếu của SATNAV, đang quay quanh vùng đất để khoanh lại vài yard vuông. Chúng ta đang nói tới một km vuông. Để có thể chính xác hơn, chúng tôi đã mở rộng địa điểm thành một dặm vuông.
- Thế thì sao?
- Và đã có rồi đây.
Đại tá Beatty chỉ lên trên tường. Gần như toàn bộ khoảng không gian mà một bức ảnh khổ lớn chụp được, với độ phân giải cao và được máy tính xử lý rõ, rộng mỗi chiều sáu fít. Tất cả mọi người nhìn chăm chú vào đó.
- Tôi chẳng nhìn thấy gì hết cả, vị tướng nói. Toàn là núi.
- Vâng, thưa tướng quân, đó chính là vấn đề. Nó không nằm ở đây đâu.
Sự chú ý tăng đến cực điểm. Tất cả đều suy nghĩ rất lung.
- Thế thì cái gì, vị tướng chậm rãi nói, có gì ở đó nào?
- Một khẩu súng, Laing nói.
- Một khẩu súng?
- Gọi là súng Babylon.
- Tôi nghĩ người của các anh đã có tất cả các thứ đó ở giai đoạn xây dựng.
- Đúng là thế thật. Có vẻ như ai đó đã vào.
- Chúng ta chưa từng làm trước đây. Trước ai cũng nghĩ là một quả tên lửa, hoặc một căn cứ máy bay chiến đấu. Không khẩu súng nào có thể bắn được một trọng tải lớn đến thế đâu.
Chương trước | Chương sau