- Em đã làm gì thế này? anh rên rỉ.
bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
- Anh sợ là, em trai ạ, em đã tiêu diệt tất cả chúng ta.
Cả hai anh em đều biết các quy tắc. Nếu phản bội, Rais sẽ không đòi một sự hy sinh duy nhất mà sẽ hành hình cả ba thế hệ: cha và chú, do đó không thể còn có dòng giống lưu truyền lại, anh em với cùng lý do, và con trai và cháu trai, để không còn ai có thể lớn lên để trả thù ông ta. Osman Badri đã bắt đầu trở nên yên lặng.
Abdelkarim đứng lên, kẻo Osman lại gần và ôm em trai.
- Em đã làm đúng, em ạ. Em đã làm đúng. Bây giờ chúng ta phải tính cách để thoát khỏi nơi đây.
Anh nhìn đồng hồ: tám giờ tối.
- Không có đường dây điện thoại nào cho công cộng từ đây về Baghdad đâu, anh nói. Chỉ có các đường dây ngầm dưới đất đến những người ở Bộ Quốc phòng đang trốn trong các boong ke tại đó Nhưng thông tin này không phải để cho họ. Em mất bao nhiêu thời gian để lái xe về nhà mẹ?
- Khoảng bốn tiếng, Osman nói.
- Em có tám tiếng để đến đó và quay lại đây. Hãy nói với mẹ gói ghém mọi thứ quý giá nhất vào xe ôtô của bố. Mẹ có thể lái xe - không tốt lắm nhưng được. Mẹ có thể mang theo Talat và về làng của Talat. Mẹ nên tìm chỗ trú ẩn ở bộ lạc của Talat cho đến khi một trong hai chúng ta liên lạc với mẹ. Hiểu chưa nào?
- Rồi. Em sẽ trở về vào lúc sáng sớm. Tại sao?
- Trước khi trời sáng. Ngày mai anh sẽ dẫn đầu đội máy bay MIG bay sang Iran. Những người khác sẽ đi trước. Đó thật là một chiến thuật điên rồ của Rais để bảo vệ những máy bay chiến đấu tốt nhất của mình. Chẳng có nghĩa gì cả, dĩ nhiên là như thế, nhưng nó có thể cứu sống bọn anh. Em sẽ đi cùng với anh.
- Em tưởng MIG 29 chỉ có một chỗ ngồi thôi chứ?
Anh còn có một cái dành cho tập luyện với hai chỗ. Loại UB. Em sẽ được ăn mặc như một sĩ quan Không quân. Nếu may mắn, chúng ta có thể đi được bằng cách đó. Giờ thì đi đi.
Mike Martin đang đi bộ về hướng tây trong đêm đó dọc theo đường Ar-Rutba khi chiếc xe chở Osman Badri đi vượt qua anh, hướng về phía Baghdad. Không ai nhận ra người kia. Đích đến của Martin là chỗ nối tới của dòng sông, còn cách đó 15 dặm đường. Tại đó, vì cầu đã bị hạ, xe tải có thể phải đứng chờ phà, và anh có cơ hội rất tốt để cho tiền một tài xế khác để đưa anh đi xa hơn về phía tây.
Gần sáng anh quả có tìm được một chiếc ôtô, nhưng nó chỉ có thể mang anh đến một nơi ngay trên Muhammadi. Đến đó sẽ lại phải chờ tiếp. Ba giờ sáng chiếc xe của đại tá Badri lại tăng tốc quay trở lại.
Anh không thương nó chút nào, không hề dừng lại Người lái rõ ràng là đang rất vội. Ngay trước khi trời sáng một chiếc xe tải thứ ba tới, dừng lại ở bên một đường cao tốc lớn, và dừng lại cho anh lên.
Anh lại trả tiền cho người tài xế từ kho tiền dinar của mình, đủ để mọi người nghĩ đã đưa cho anh ở Mansour. Sáng sớm, anh nghĩ vậy, người nhà Kulikov có thể thông báo đã mất người làm vườn của mình.
Việc tìm kiếm anh có thể làm lộ ra cuốn sổ ghi chép giữa tấm đệm - một thứ thật không hay ho gì với một kẻ mù chữ - và tìm tiếp có thể thấy máy phát dưới mái nhà. Khoảng giữa ngày, việc truy lùng sẽ bắt đầu, khởi đầu ở Baghdad nhưng sẽ lan rộng ra toàn quốc. Khoảng đến đêm, anh cần phải ở đủ xa trong sa mạc, đi thẳng về hướng biên giới.
Chiếc xe tải trong đó anh đang ngồi đang ở trên KM 160 khi chiếc máy bay MIG 20 bắt dầu cất cánh. Osman Badri đang kinh hoàng, như những người khác lần đầu bay. Trong các hầm ngầm của căn cứ, anh đã đứng bên cạnh anh trai mình với bốn phi công trẻ khác sẽ cùng bay trong phi vụ. Phần lớn những người cùng độ tuổi Abdelkarim đều đã chết; chỉ còn những người trẻ hơn, kém anh đến cả chục tuổi, rời trường học chưa được bao lâu. Họ lắng nghe với sự chú ý cao độ người chỉ huy đội bay của mình và gật đầu ra dấu tuân lệnh.
Trong chiếc MIG, ngay cả khi đã buộc chặt dây, Osman vẫn nghĩ mình chưa từng nghe thấy tiếng gầm nào giống như thế, trong không gian đóng kín, hai động cơ phản lực RD 33 của Liên Xô chạy lên hết công suất. Ngồi rúm ró ở đằng sau anh trai mình, Osman nhìn thấy những cánh cửa kiên cố mở ra với những pít tông thuỷ lực và một bầu trời xanh nhợt nhạt ở cuối hầm. Tiếng ồn tăng lên khi viên phi công chạy băng qua cổng và lao lên, và chiếc máy của người Liên Xô gầm rú lao lên bầu trời. Khi phanh đã dừng lại, Osman nghĩ mình đã bị một con la đá hậu lao về phía sau. Chiến MIG nhảy lên trước, những bức tường bị băng qua, và lao khỏi bệ phóng để bay vào ánh sáng của buổi bình minh.
Osman nhắm chặt mắt và cầu nguyện. Tiếng bánh máy bay quay đã dừng lại, anh thấy như mình bị co thắt lại, và mở mắt ra. Họ đã ở trong không trung, chiếc máy bay đã ở trên KM 160 trong khi bốn chiếc khác đang rời khỏi đường hầm ở bên dưới. Khi các cánh cửa đóng lại, căn cứ đã ngừng tồn tại. Xung quanh anh, vì chiếc UB là một máy bay tập luyện, là những thứ khoá, nút bấm, cần gạt, màn hình, nút bấm, và cần đẩy Giữa chân anh là một cần số. Anh trai anh đã nói anh để mọi thứ nguyên đấy, mà anh thì lại thích làm gì đó. Lên đến độ cao 1000 fít đội bay gồm 5 chiếc MIG tạo thành một dường cong, bốn phi công trẻ phía dưới viên chỉ huy đội bay. Anh trai anh đang trên đường đi thẳng về phía nam lệch sang đông, giữ mình bay ở thấp, hy vọng tránh được sự do thám và đi qua vùng ngoại ô phía nam của Baghdad, thoát khỏi sự dò tìm của người Mỹ trong những nhà máy và các hình ảnh ra đa khác. Đó là một canh bạc nhiều rủi ro, cố tránh khỏi các ra đa của AWACS bay trên vùng Vịnh, nhưng anh không còn lựa chọn nào khác. Những mệnh lệnh xuống anh rất chính thức, và giờ đây Abdelkarim Badri đã có một lý do phụ khác để mong đến được Iran.
Sáng hôm đó anh gặp may, loại may mắn không mấy khi đến trong chiến tranh. Vào cuối chặng đường ở vùng Vịnh, AWACS phải quay về căn cứ của mình và được thay bằng cái khác. Việc này được gọi là đi ta xi. Trong khi thay thế như vậy, có một khoảng thời gian khi rađa dò sóng ngừng làm việc. Chuyến bay thấp của những chiếc MIG qua nam Baghdad và Salman Pak rơi đúng vào lúc nghỉ may mắn đó. Viên phi công Iraq hy vọng bằng cách giữ độ cao 1000 fít. anh có thể bay ở bên dưới các máy bay chiến đấu của Mỹ, thường bay ở độ cao 20000 fít và cao hơn. Anh muốn đến được bên ngoài thành phố Al Kut ở phía bắc, rồi đi thẳng một cách an toàn tới biên giới Iran ở điểm gần nhất.
Sáng hôm đó, vào giờ đó, đại úy Don Walker của Đội bay chiến thuật số 336 bay từ sân bay Al Kharz dẫn đầu đội bay gồm bốn chiếc Strike Eagle đi về phía bắc hướng Al Kut, nhiệm vụ của anh là ném bom một câu cầu chính qua sông Tigris ngang qua đó những chiếc xe tăng của đội Vệ binh Cộng hòa đã bị một chiếc J-STAR bay hướng nam Kuwait phát hiện ra. Đội 336 đã chủ yếu tốn thời gian trong cuộc chiến tranh trong những nhiệm vụ buổi đêm, nhưng chiếc cầu phía bắc Al Kut có thể là một "fix nhanh", có nghĩa là không có thời gian để mất nếu những chiếc xe tăng Iraq sử dụng nó để đi về phía nam.
Cho nên nhiệm vụ ném bom sáng hôm đó được mang mật danh "trực tiếp Jeremiah": tướng Chuck Horner muốn nó được thực hiện, và ngay lập tức.
Những chiếc Eagle đang lao đi với những quả bom 2000 pound có laser hướng lối cùng với các tên lửa không đối không. Vì việc đặt vị trí của các cột bom ở dưới cánh chiếc Eagle, trọng tải trở nên mất cân bằng, những quả bom ở một bên sẽ nặng hơn là những hỏa tiễn Sparrow ở bên kia. Điều này được gọi là trọng tài chó chết. Có điều khiển tự động lo cho việc đó, nhưng đó vẫn là loại trọng tải mà hầu hết phi công đều không muốn chọn khi phải đối mặt với kẻ thù.
Cũng như những chiếc MIG, giờ đang bay ở độ cao 500 fit nhìn thẳng xuống phía dưới, đang tiến về phía tây, những chiếc Eagle đang đi về phía nam, cách đó 800 dặm.
Chỉ dẫn thứ nhất mà Abdelkanm Badri có được về sự có mặt của họ là một tiếng động ì ầm nhỏ trong tai-mình. Em trai anh ở đằng sau không hề biết chuyện gì xảy ra, nhưng các phi công chiến đấu thì biết. Chiếc MIG dành cho tập luyện đang dẫn đầu, bốn chiếc đi kèm đang đi ngay sau tạo thành hình chữ V Tất cả đều nghe thấy tiếng động đó.
Tiếng ồn nhỏ đến từ RWR của họ - máy nhận cảnh báo từ ra đa. Điều đó có nghĩa là có các ra đa khác đang ở đâu đó, quét lên nền trời.
Bốn chiếc Eagle có rada của mình trong hệ thống kiểm tra, những tín hiệu radio ở phía trước họ đều nhìn thấy là có. Những máy nhận cảnh báo rađa của Liên Xô đã nhận ra các tín hiệu đó và đang nói lại cho các phi công của mình. Những chiếc MIG không thể làm gì khác ngoài việc tiếp tục bay. Ở độ cao khoảng 500 fít họ đã ở dưới những chiếc Eagle khá nhiều và đang đi ngang qua tầm bắn của những chiếc đó.
Cách 60 dặm, tiếng ồn trong tai các phi công Iraq to dần thành tiếng ồn rất lớn. Điều này có nghĩa các RWR nói với họ: ai đó ở đằng kia đã bỏ chế độ tìm kiếm và đang lao về phía các anh.
Sau Don Walker, người wizzo Tim của anh nhìn thấy thay đổi trên màn hình ra đa. Từ một máy quét ra đa tinh vi, những chiếc ra đa của Mỹ đã bật lên, thu hẹp dần dải quét và chỉ tập trung vào cái mình đã phát hiện được.
- Chúng ta có năm chiếc máy bay chưa thể xác định của bên nào, thấp dưới mười độ. người wizzo thì thầm, và bật IFF. Những người wizzo khác trong đội hình bay cũng làm như vậy.
Sự định vị Bạn hay Thù là một kiểu chuyển tin được mọi máy bay chiến đấu sử dụng. Nó gửi đi một sóng với các tần số nào đó, sẽ được thay đổi hàng ngày. Các máy bay chiến đấu cùng một bên sẽ nhận được xung lực đó và trả lời: "Tôi là bạn". Máy bay đối phương không thể làm như thế. Năm tiếng bịp trên màn hình ra da đang dò tìm hàng dặm phía trước và đang tiến lại gần khu vực có thể năm chiếc máy bay bạn đang quay trở lại từ một phi vụ - hoặc đúng hơn, từ nơi không xa những máy bay Liên quân khác trên bầu trời chứ không phải của Iraq.
Tim hỏi các máy bay lạ theo kiểu 1,2,3,4. Không có câu trả lời
- Bọn địch đấy, anh ta báo cáo. Don Walker, chuyển kim báo tên lửa lên rađa, thì thầm: "Sẵn sàng" với ba phi công khác, đang căng thẳng nhìn ra trước và lao lên.
Abdelkarim Badri đang ở thế bất lợi, và anh biết điều đó. Anh biết điều đó kể từ thời điểm người Mỹ dang tiến dần về phía anh. Anh biết mà không cần chiếc IFF nào phải báo với anh rằng những máy bay lạ đó không thể là người Iraq anh em. Anh biết đã bị đối phương định vị, và anh biết các đồng nghiệp trẻ tuổi của mình có thể không hề biết chuyện đó. Bất lợi của anh nằm ở chiếc MIG anh đang lái. Vì đó là loại bay huấn luyện, dạng duy nhất có hai chỗ ngồi, nó không bao giờ được dành cho chiến đấu. Rađa của đại tá Badri chỉ có 60 độ ngoài đỉnh. Anh không thể nhìn thấy ai đang tiến lại gần mình.
- Anh có gì vậy? anh hất hàm về phía người cùng bay. Câu trả lời đầy hồi hộp và kinh hoàng.
- Bốn máy bay địch, cao hơn ba độ, đang lao xuống rất nhanh.
Thế là canh bạc đã thất bại. Người Mỹ không bao giờ lao xuống từ bầu trời từ phía nam, chủ đích lao vào họ ngay trên không trung.
- Lao xuống, xuống nhanh lên, đi về sau, hướng về phía Iran, anh gào lên.
Các phi công trẻ không cần đợi chờ gì để ngừng lại. Từ các ống khói của những chiếc phản lực của mỗi chiếc MIG một làn khói dày đặc bắn ra, đưa các phi công vượt tốc độ âm thanh và gần như lao đi với vận tốc gấp đôi.
Mặc kim báo nhiên liệu đã tăng vọt lên. những chiếc máy bay một chỗ có thể bay được xa đủ để tránh người Mỹ và vẫn có thể đến được Iran. Việc họ lao đi trước sẽ tránh cho họ bị các máy bay Mỹ đuổi kịp, cho dù họ đã ở gần kề.
Abdelkarim Badri không có lựa chọn đó. Khi làm các máy bay huấn luyện, các kỹ sư Liên Xô đã không chỉ đưa vào một ra đa đơn giản, mà còn gắn thêm vào trọng tải của người tập luyện và khoang ngồi của anh ta, họ do đó phải giảm bớt khả năng nhiên liệu bên trong.
Viên đại tá phi công đang bay ở rất xa những chiếc máy bay tiếp nhiên liệu, nhưng như thế vẫn còn chưa đủ. Anh có bốn lựa chọn. Nó khiến anh mất hơn hai giây để thực hiện.
Anh có thể chuyển sang chế độ tăng tốc, thoát khỏi các máy bay Mỹ, và quay trở về căn cứ Iraq, nơi đó anh sẽ bị bắt và sớm hay muộn sẽ bị đưa đến chỗ AMAM để bị tra tấn và sẽ chết.
Anh có thể tăng tốc và tiếp tục bay đến Iran, tránh được người Mỹ nhưng hết nhiên liệu ngay sau khi vượt được biên giới Ngay cả khi anh và em trai anh nhảy ra được ngoài một cách an toàn, họ vẫn có thể rơi vào các bộ lạc Ba Tư, những người đã chịu đựng khủng khiếp trong chiến tranh Iran-Iraq từ những chuyến hàng do máy bay Iraq thả xuống đầu họ.
Anh có thể tăng tốc tránh những chiếc Eagle, rồi bay về phía nam để sang A rập Xêut và trở thành một tù binh. Anh không mong gì sẽ được đối xử tử tế.
Có một câu thơ đi vào trong óc anh từ lâu rồi, những câu thơ anh học được ở trường của ông Hartley ở thành phố Baghdad thời anh còn là cậu học trò. Của Tennyson? Wordsworth? Không. Macaulay, đúng rồi, Macaulay, điều gì đó về một người dàn ông trong khoảnh khắc cuối đời mình, điều gì đó mà anh đã đọc to ở trong lớp học.
Với mỗi người trên thế gian này
Cái chết sẽ đến không sớm thì muộn
Và bằng cách nào ai đó có thể chết tốt đẹp hơn
Là đối mặt với những điều xấu xa đáng sợ
Với tro di hài của cha ông anh ta
Và những đền thờ của thánh thần của anh ta ?
Badri đẩy cần gạt qua cánh cổng để chuyển sang chế độ tăng tốc, lao chiếc MIG Fulcrum vào đường vòng lớn, và lao lên để đối đầu với người Mỹ.
Ngay khi anh quay đầu, bốn chiếc Eagle đã lọt vào tầm rada của anh. Hai chiếc đã được định vị, đang tiến xuống sau chiếc máy bay hai chỗ ngồi đang bay, cả hai đều đang phóng rất nhanh, trên tốc độ âm thanh.
Nhưng người chỉ huy đội bay Mỹ đang tiến thẳng xuống lao vào anh. Badri cảm thấy sự rung chuyển khi chiếc Fulcrum đạt tốc độ siêu thanh, khiến cột chỉ huy biến thành một màn rung, và lao lên tìm chiếc Eagle đang lao xuống thẳng vào anh.
- Chúa tôi, hắn lao thẳng vào chúng ta! Tim nói từ băng ghế sau. Walker không cần được nhắc. Màn hình ra đa của anh cho anh thay bốn nháy đã biến mất của đội bay Iraq đang chuyển hướng sang Iran và chỉ còn một chiếc trong số đó đang lao thẳng về anh. Chiếc máy kêu lên như tiếng chuông báo thức đã ngoài tầm kiểm soát. Còn cách khoảng 30 dặm, họ lao thẳng vào nhau với vận tốc 2200 dặm một giờ. Anh vẫn chưa nhìn rõ được chiến Fulcrum, nhưng sẽ không còn lâu la nữa dâu.
Trong chiếc MIG, đại tá Osman Badri đã hoàn toàn mất ý niệm. Anh không hiểu gì hết về điều dang diễn ra. Việc đột ngột tăng tốc đã đẩỵ anh bắn ra đằng sau lần nữa. và việc quay vòng ngược lại khiến anh chết giấc mất mấy giây.
- Điều gì đang xảy ra vậy? anh gào vào mặt nạ của mình, không hề hay biết nút tắt tiếng đã được bật, nên anh trai không thể nghe thấy anh nói gì.
Ngón tay Don Walker đang chỉ vào nút điều khiển tên lửa. Anh có hai lựa chọn: tên lửa tầm xa AIM-7, được rađa hướng dẫn từ chính chiếc Eagle, hoặc quả Sidewinder AIM - 9 tầm ngắn, là kiểu dò mục tiêu theo nhiệt lượng.
Còn cách 15 dặm anh đã có thể nhìn thấy nó, cái chấm đen nhỏ xíu đang lao thẳng vào anh. Hai cánh sải rộng cho thấv đó là một chiếc MIG 29 Fulcrum - một trong số những máy bay chiến đấu lao thẳng tốt nhất thế giởi ở bên tay phải. Walker không biết dược anh đang đối mặt với một chiếc dành cho huấn luyện không được trang bị vũ khí. Điều anh biết là nó có thể chở theo tên lửa AA-10 của Liên Xô, với tầm bắn dài bằng những quả AIM-7 của anh. Do đó anh đã chọn tên lửa Sparrow.
Còn cách 12 dặm anh bắn thẳng hai quả Sparrow ra trước. Những quả hỏa tiễn bay đi, hướng theo sự chỉ dẫn của rađa nhận được năng lượng từ chiếc MIG và ngoan ngoãn lao thăng về hướng dó.
Abdelkarim Badri nhìn thấy chớp sáng khi hai quả Sparrow rời chiếc Eagle, chỉ còn để lại cho anh thêm vài giây sống trừ khi anh có thể khiến cho người Mỹ ngừng tay lại. Anh lùi người sang bên trái và hạ một bậc. Don Walker vẫn thường tự hỏi điều đó có thể giống gì. Và giờ đây anh đã hiểu. Từ dưới cánh của chiếc MIG bay ra một chớp ánh sáng. Nó giống như một bàn tay lạnh lùng đang gỡ ra, cái cảm giác lạnh lẽo, tê cứng của nỗi sợ hãi ghê gớm. Một người khác đã bắn hai quả tên lửa vào anh. Anh nhìn chằm chằm vào cái chết chắc chắn đang ở ngay trưởc mặt.
Hai giây sau khi bắn ra hai quả tên lửa Sparrow. Walker những muốn đã từng chọn những quả Sidewinder. Lý do thật đơn giản: chiếc Sidewinder là những quả tên lửa nổ và biến đi, nó có thể tìm ra mục tiêu mà không biết chiếc Eagle ở đâu.
Những quả Sparrow cần chiếc Eagle phải hướng dẫn chúng, nếu anh bỏ đi, những quả tên lửa, không có người hướng dẫn, có thể "xịt", hoặc đi lang thang trên trời cho đến khi rơi xuống mặt đất một cách vô hại.
Anh chỉ còn một tích tắc nữa là ấn nút thôi thì nhìn thấy những quả tên lửa do chiếc MIG bay ra rơi thẳng xuống phía dưới. Kinh ngạc anh nhận ra chúng hoàn toàn không phải là những quả hỏa tiễn; tên Iraq đã lừa anh bằng cách bắn các thùng xăng dưới cánh vào anh. Các thùng nhôm đựng xăng đã bắt ánh nắng mặt trời buổi sáng trong khi chúng rơi ra, lấp lánh như đuôi những quả hỏa tiễn được phóng ra. Đó là một trò lừa đảo, và anh, Don Walker, đã suýt nữa thì mắc bẫy.
Trong chiếc MIG Abdelkanm Badri nhận ra tên người Mỹ không chịu lùi bước. Anh đã thử thần kinh của đối thủ, nhưng anh đã thua. Trên băng ghế sau Osman đã tìm thấy nút đàm thoại. Anh có thể nhìn được bằng cách nhìn qua vai anh mình rằng họ đang lao xuống, đã xuống hàng dặm rồi.
- Chúng ta đi đâu thế này? anh gào lên. Điều cuối cùng anh nghe thấy là giọng nói của Abdelkarim, khá bình thản:
- Đến với sự yên bình, em trai của anh ạ. Đến gặp cha. Allah-o-Akhabar.
Đúng lúc đó Walker nhìn thấy hai quả Sparrow phát nổ, những mẩu lớn lửa đỏ cách đó 3 dặm, rồi những mảnh vỡ của chiếc máy bay chiến đấu Liên Xô rơi xuống vùng đất phía dưới.
Anh cảm thấy mồ hôi lạnh toát đầm đìa đầy người. Người cùng bay với anh, Randy Roberts, người đã giữ vị trí bên trên và đằng sau anh, xuất hiện ở bên cánh phải, bàn tay đeo găng trắng giơ lên với ngón tay cái dựng lên. Anh trả lời bằng cách đó, và hai chiếc Eagle, đã rời bỏ sự rượt đuổi vô vọng những chiếc MIG còn lại, bay lên trên để tiếp tục đến cây cầu trên Al Kut.
Với tốc độ của những chiếc máy bay chiến đấu, toàn bộ sự việc, kể từ khi ra đa được bật lên cho đến khi tiêu diệt xong chiếc Fulcrum, chỉ kéo dài đúng 30 giây đồng hồ.
Kẻ chỉ điểm có mặt ở ngân hàng Winkler vào đúng 10 giờ sáng hôm đó, có người "kế toán" đi cùng. Người trẻ hơn cầm theo một cái cặp tài liệu có chứa 100.000 đôla Mỹ tiền mặt. Tiền trên thực tế là một khoản vay nóng do người sayan làm ngành ngân hàng dàn xếp, người đã được cho biết số tiền đó sẽ được gửi vào ngân hàng Winkler trong một thời gian, rồi sẽ được lấy về và đem trả lại cho anh ta.
Khi nhìn thấy tiền, Herr Gemuetlich thấy thật thoải mái. Ông có thể kém nhiệt tình hơn nhiều nếu nhận ra những đồng đôla đó chỉ chứa trong phân nửa bề dày của cái cặp tài liệu, và ông có thể còn phải kinh hoàng thấy cái đang nằm ở tận đáy chiếc cặp giả.
Vì lý do kín đáo, người kế toán yêu cầu không để cô Hardenberg vào phòng trong khi người luật sư và ông chủ nhà băng thống nhất những mật mã cho tài khoản mới.
Người kế toán chịu trách nhiệm về hoá đơn và tiền, và khoảnh 11 giờ vấn đề đã được giải quyết. Herr Gemuetlich triệu tập người lục sự để đi theo các vị khách đến hàng lang và ra đến cửa ngoài. Trên đường đi xuống người kế toán thì thầm điều gì đó vào tai viên luật gia người Mỹ, và người luật gia dịch lại cho viên lục sự. Với một nút bấm của người lục sự đã dừng chiếc thang máy cổ lỗ sĩ ở tầng đệm và ba người đi ra ngoài.
Luật sư chỉ vào cánh cửa phòng vệ sinh nam cho đồng nghiệp của mình, và anh chàng kế toán đi vào. Luật sư và viên lục sự vẫn đứng ở bậc đệm bên ngoài phòng.
Đúng lúc đó vang đến tai họ âm thanh hoảng hốt trong hành lang, rõ ràng bởi vì tầng đệm chỉ cách hành lang có 20 fít và thấp hơn 15 bậc thang gác. Lẩm bẩm xin lỗi viên lục sự chạy thẳng ra hành lang cho đến khi anh ta có thể nhìn từ đầu đoạn cầu thang xuống toàn bộ các bậc thang bằng đá để xem việc gì xảy ra.
Đó là một cảnh tượng kinh hoàng. Bằng cách nào đó ba tên ma cà bông, say khướt, dã đi vào trong hành lang và đang đòi tiền người tiếp tân để đi uống rượu tiếp. Cô ta sau đó chỉ có thể kể lại rằng bọn họ đã lừa cô mở cửa bằng cách nói mình là nhân viên bưu điện.
Thật là nhục nhã, viên lục sự tức tốc tìm cách đẩy những tên hooligan ra ngoài. Không ai nhận ra là một trong ba kẻ đó, khi đã vào được, đã ném một hộp thuốc lá vào khe cửa nên dù đã đóng được nhưng tiếng quát tháo vẫn lọt vào. Cũng không ai để ý, trong khi đang xô đẩy nhau, một người thứ tư đã bò vào trong hành lang. Khi đứng dậy, anh đã đứng cùng vị luật gia từ New York, người đã theo viên lục sự đi xuống từ trên thang gác xuống đến hành lang.
Họ đứng một bên viên lục sự đang đẩy ba tên say về nơi của chúng - trên hè phố. Khi anh ta quay nhìn quanh, người lục sự của ngân hàng nhìn thấy vị luật sư và người kế toán đã đi xuống khỏi tầng đệm cùng với nhau. Với những lời xin lỗi cuống cuồng, anh ta mời họ đi ra khỏi ngân hàng.
Khi đã ra đến ngoài phố, viên kế toán thở ra một tiếng.
- Tôi hy vọng không bao giờ phải làm thế này nữa, anh ta nói .
- Đừng lo, luật gia nói. Anh làm khá tốt đấy.
Họ nói bằng tiếng Do Thái, bởi vì viên kế toán không biết thứ tiếng nào khác nữa cả. Trên thực tế anh ta là một người làm cho ngân hàng ở Beershe'eva, và lý do duy nhất anh ta có mặt ở Vienna, trong công vụ đóng giả đầu tiên và duy nhất của mình, là do anh ta trông khá giống với người phá khoá, người giờ đây đã đứng bất động trong bóng tối của nhà vệ sinh trên tầng đệm. Anh ta sẽ phải nín thở đứng đó 12 tiếng đồng hồ.
Mike Martin đến Ar-Rutba vào giữa trưa. Anh mất 20 tiếng đồng hồ để di qua khoảng cách mà nếu đi bằng ôtô thì chỉ mất không hơn 6 tiếng.
Tại vùng ngoại ô của thành phố anh tìm thấy một người nông dân với một đàn dê và khiến anh ta có vẻ gì đó kỳ bí nhưng khá hạnh phúc khi được đề nghị bán bốn con trong số chúng với toàn bộ số dinar còn lại trong tay, với giá gấp đôi mà người nông dân có thể bán được ở chợ.
Những con dê cũng có vẻ sung sướng lại được đi ra sa mạc, ngay cả khi chúng giờ đây đã bị choàng dây buộc cổ. Chúng khó có thể đoán trước có thể chúng chỉ có ở đó để giải thích tại sao.
Mike Martin lại đi lang thang quanh sa mạc ở phía nam con đường dưới ánh mặt trời giữa trưa. Vấn đề của anh là không có la bàn - nó đang nằm lại với các loại đồ đạc của anh, ở bên dưới những tấm tôn trần nhà ở Mansour. Sử dụng ánh mặt trời và chiếc đồng hồ rẻ tiền của mình, anh tìm kiếm cố hết sức có thể được để đi được từ tháp phát thanh của thành phố để đến wadi nơi xe mô tô của anh đang được chôn giấu.
Chương trước | Chương sau