Old school Swatch Watches
Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe


Tác giả:
Đăng ngày: 15-07-2016
Số chương: 23
5 sao 5 / 5 ( 129 đánh giá )

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe - Chương 20

↓↓

- Tôi muốn nó phải đầu hàng, Rahmani nói với đội theo dõi giỏi nhất của mình khi quay trở về văn phòng. Hãy yên lặng, kín đáo, chậm rãi thôi. Nhưng tôi muốn phải theo dõi sát sao tòa nhà đó. Mọi người khách đến và đi - và sẽ phải có khách khứa đấy - tôi muốn các anh phải theo đuôi họ.

bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


Vào buổi trưa. các đội theo dõi đã vào vị trí. Họ ngồi trong những chiếc ôtô đậu dưới những tán cây phủ lên bốn bức tường của ngôi nhà của Kulikov và theo dõi cả hai đầu của con đường duy nhất dẫn đến đó. Những người khác, đứng xa hơn nhưng có liên lạc bằng điện đàm, có thể báo cáo về mọi sự đến gần và có thể đi theo bất kỳ ai ra khỏi nhà.


Người con út ngồi trong phòng ăn của ngôi nhà bố mẹ mình và nhìn vào cái bao tải lớn có chứa bố mình. Những dòng lệ chảy dài trên mặt và rơi xuống bộ quân phục anh ta đang mang. Anh nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ngày xưa. Bố anh là một bác sĩ giàu có vào thời đó, với một phòng khám lớn, thậm chí còn khám bệnh cho một số gia đình người Anh sau khi được giới thiệu đến cho họ bởi người bạn Nigel Martin.


Anh ta nghĩ về khoảng thời gian cùng anh trai mình chơi đùa trong sân nhà Martin với Mike và Terry, và anh ta tự hỏi không biết điều gì đã xảy đến với họ vào lúc này.


Sau một giờ anh ta nhận thấy mùi từ cái túi đã nặng lên. Anh ta đứng lên và đi ra cửa.


- Talat.


- Thưa cậu chủ?


- Mang kéo và một cái dao lại đây.


Còn lại một mình trong phòng, đại tá Osman Badri mở phanh cái túi ra, từ trên miệng dọc sang bên và dọc đến đáy. Rồi anh kéo đầu cái túi ra và quay nó vào. Xác của bố anh gần như trần truồng.


Theo truyền thống, đó là công việc của phụ nữ, nhưng mẹ anh không thể làm gì được vào lúc này. Anh bảo mang đến nước và bông băng, tắm rửa lau chùi cho cái xác tơi tả, lắp lại cái chân gẫy, duỗi thẳng nó ra và phủ hoa lên. Trong khi làm việc, anh khóc, và trong khi khóc, anh thay đổi.


Vào hoàng hôn anh gọi cho Imam ở nghĩa trang Alwazia ở Risafa và thỏa thuận cho một đám tang vào sáng ngày hôm sau.


Mike Martin trên thực tế đã đi vào trong thành phố trên chiếc xe đạp của mình vào buổi sáng chủ nhật, ngày 17 tháng Hai đó, nhưng anh đã quay về sau khi mua xong rau quả và kiểm tra ba bức tường xem có dấu phấn nào không, trở về đến ngôi biệt thự đúng trước buổi trưa. Trong buổi chiều anh rất bận rộn chăm sóc khu vườn. Ông Kulikov, trong khi không người Công giáo cũng như đạo Hồi nào kỷ niệm dù là ngày lễ thánh Hồi giáo vào thứ Sáu hay ngày lễ Sabbath của người Công giáo vào Chủ nhật, vẫn ở nhà với vẻ lạnh lùng, phàn nàn về tình trạng những bông hoa hồng của mình.


Trong khi Martin làm việc với những khóm hoa hồng, các đội theo dõi của Mukhabarat đã kín đáo nhìn vào trong qua bức tường. Anh lập luận rằng Jericho sẽ không có tin tức gì mới trong ít nhất hai ngày nữa; Martin sẽ có thể đi kiểm tra những dấu phấn lại vào tối ngày hôm sau.


Đám tang của tiến sĩ Badri diễn ra ở Alwazia rất ngắn sau 9 giờ. Các nghĩa trang của Baghdad rất bận rộn trong thời gian đó, và Imam phải có nhiều việc phải làm. Chỉ vài ngày trước, Mỹ đã ném bom một hầm trú ẩn công cộng, làm hơn 300 người chết. Nỗi buồn thương dâng cao. Nhiều người khóc lóc ở đám tang bên cạnh đều tưởng viên đại tá có người thân chết vì những quả bom của quân Mỹ. Anh trả lời ngắn gọn bố mình chết vì những lý do tự nhiên.


Theo phong tục đạo Hồi, tang lễ thường diễn ra nhanh chóng, không mất thời gian chờ đợi giữa khi chết và khi chôn xuống đất. Và cũng không có quan tài gỗ như ở người Công giáo; xác chết được quấn trong vải. Viên dược sĩ tới, giúp đỡ bà Badri, và họ đi về thành nhóm khi nghĩa trang nhỏ bé đã đông người.


Đại tá Badri chỉ cách vài yard từ cửa Alwazia khi anh nghe gọi tên mình. Đứng cách anh vài bước chân là một chiếc limousin với cửa sổ màu đen. Một cửa sổ ở băng ghế sau đang mở. Lại có tiếng gọi tên anh. Đại tá Badri bảo viên dược sĩ đưa mẹ mình về nhà ở Qadisiyah; anh sẽ quay về gặp họ sau. Khi họ đã đi, anh bước tới chiếc ôtô.


Giọng nói vang lên: "Lên đây nào, đại tá. Chúng ta cần nói chuyện".


Anh mở cửa xe và bước vào trong. Người duy nhất trong xe dịch vào dành chỗ cho anh. Badri nghĩ mình biết khuôn mặt này, nhưng thật mù mờ. Anh đã nhìn thấy ở đâu đó. Anh bước vào và đóng cửa.


Người đàn ông trong bộ com lê màu ghi đậm nhấn một cái nút, và cửa sổ đóng trở lại, ngăn tiếng động trong xe không vang ra ngoài.


- Anh vừa mới chôn cất cha mình xong.


- Phải. Người đàn ông đó là ai? Tại sao ông ta không lộ mặt ra?


- Thật điên rồ, cái điều đã xảy ra với ông. Nếu tôi được biết đúng lúc, tôi có thể chặn nó lại. Tôi biết muộn quá.


Osman Badri cảm thấy điều gì đó như một cú đấm vào bao tử. Anh đã nhận ra mình đang nói chuyện với ai - một người đã nói chuyện với anh ở một cuộc tiếp tân của giới quân sự hai năm trước đây.- Tôi đang định nói cho anh đây, đại tá, rằng, nếu anh báo cáo lại chuyện này, tôi có thể phải chết thảm còn hơn cha anh nhiều.


Thì cũng chỉ vẫn chuyện đó thôi, Badri nghĩ. Phản phúc.


- Một lần nữa, người đàn ông trầm giọng nói, tôi nhắc lại là tôi yêu Rais.


- Thì tôi cũng thế, Badri nói.


- Nhưng mọi chuyện đã thay đổi. Ông ấy đang trong cơn điên. Trong cơn điên giận ông ta hành động kinh khủng lắm.


- Ông ta phải bị chặn lại. Anh chắc là cũng biết Qa'ala rồi chứ.


Badri lại ngạc nhiên, lần này bởi sự thay đổi chủ đế đột ngột.


- Dĩ nhiên, tôi đã xây dựng nó rồi mà.


- Chính xác là như thế. Anh có biết nó nằm ở đâu không?


- Không.


Viên sĩ quan cấp trên nói với anh.


- Ông ta hẳn là không nghiêm túc rồi, Badri nói.


- Ông ta hoàn toàn nghiêm túc. ông ta có ý định sử dụng nó để chống lại người Mỹ. Điều đó có thể không phải là điều chúng ta phải bận tâm. Nhưng anh có biết người Mỹ sẽ trả đũa như thế nào không?


Sẽ rất kinh khủng. Không một viên gạch nào ở đây lành lặn nổi đâu, không một viên đá nào hết. Chỉ Rais là còn sống sót thôi. Anh có muốn là nạn nhân trong đó không?


Đại tá Badri nghĩ về những xác chết nằm trong nghĩa trang, trên đó những sexton ngang bằng với nhau khi đó sẽ tung khỏi mặt đất.


- Thế ông muốn gì? anh hỏi.


- Nói cho tôi biết về Qa'ala.


- Tại sao?


- Người Mỹ sẽ phá huỷ nó đi.


- Ông có thể chuyển thông tin cho họ à?


- Tin tôi đi, có cách mà. Qa'ala...


Thế là đại tá Osman Badri, người kỹ sư trẻ đã từng muốn xây những công trình lớn cho hàng thế kỷ, cũng như tổ tiên anh từng làm, nói với người có tên là Jericho.


- Địa điểm đây.


Badri đưa cho ông ta cái đó.


- Đi về chỗ của anh đi, đại tá. Anh sẽ được an toàn.


Đại tá Badri rời khỏi chiếc xe và đi, lòng anh nặng trĩu. Đi dược 100 yard anh bắt đầu tự hỏi mình, hỏi đi hỏi lại: mình vừa làm gì vậy? Đột nhiên, anh hiểu là anh phải nói cho anh trai mình, người anh trai luôn có một cái đầu lạnh lùng. là một người cố vấn khôn ngoan hơn nhiều.


Người mà đội Mossad gọi là kẻ chi điểm quay lại Vienna vào thứ Hai đó, do Tel Aviv triệu tập. Lại một lần nữa anh ta vào vai luật gia có uy tín từ New York đến, với mọi thứ giấy tờ cần thiết để chứng minh.


Ngay cả dù cho người luật gia thực sự không còn đang đi nghỉ, các cơ may để Gemuetlich, người ghét điện thoại và fax, gọi điện đến New York để kiểm tra được coi là rất nhỏ. Đó là nguy cơ mà Mossad đã chuẩn bị để ứng phó.


Lại một lần nữa người kẻ chỉ điểm lại ngồi ở Sheraton viết một bức thư riêng đến Herr Gemuetlich. Anh ta lại xin lỗi về đã đường đột đến thủ đô nước Áo nhưng giải thích mình có mang theo kế toán của hãng, và hai người muốn gửi tiền nhân danh khách hàng của mình.


Bức thư được gửi bằng tay vào buổi chiểu muộn, và sáng hôm sau trả lời của Gemuetlich đã đến khách sạn, hẹn gặp vào 10 giờ sáng hôm đó.


Kẻ chỉ điểm quả thực có người đi theo. Người đi cùng anh ta chỉ được biết là người phá khoá, chuyên môn của anh ta. Nếu Mossad có được ở đại bản doanh Tel Aviv của mình một bộ sưu tập không thể sánh được các loại công ty giả, hộ chiếu mạo, hòm thư, và mọi thứ linh tinh khác để đánh lừa, thì niềm tự hào của nó phải tính đến những tay chuyên bẻ khoá két sắt và hòm thư. Khả năng của Mossad đột nhập vào những nơi được khoá kỹ là sở trường trong thế giới ngầm. Về khoa học đột nhập, Lừ lâu Mossad đã được coi là giỏi nhất. Đã từng có đội neviot trong vụ Watergate, không ai có thể biết được. Tiếng tăm của những tay phá khoá Israel cao đến nỗi khi các nhà sản xuất Anh gửi một sản phẩm đến SIS theo lời đề nghị của họ, Nhà Thế kỷ đã chuyển ngay nó sang cho Tel Aviv. Mossad nghiên cứu nó, phá được nó, rồi chuyển về London với nhận xét chắc chắn". SIS bèn bỏ nó.


Lần tới một công ty khoá của Anh đã làm ra được một loại khoá mới rất ưu việt, Nhà Thế kỷ đã đề nghị họ mang về, giữ lấy nó, nhưng cung cấp một cái khác dễ dàng hơn cho các nhà phân tích. Cái dễ hơn đó được chuyển sang Tel Aviv. Tại đó nó được nghiên cứu và cuối cùng bị phá, rồi được chuyển về London với nhận xét "không thể phá được". SIS bèn khuyên nhà sản xuất tung khoá ra thị trường.


Điều này dẫn đến một vụ khá rắc rối một năm sau đó, khi một người phá khoá của Mossad mất nhiều giờ toát mồ hôi và tức điên lên khi làm việc với một cái khoá như thế trong hành lang một toà nhà văn phòng tại một thủ đô châu Âu trước khi phải rời đi trong cơn tức giận. Kể từ đó, người Anh tự kiểm tra lấy khoá của mình và buộc Mossad phải tự mầy mò.


Chuyên gia phá khoá mang theo từ Tel Aviv không phải là người giỏi nhất ở Israel mà là người giỏi thứ hai. Nguyên nhân cho việc này: anh ta có một số phẩm chất mà người giỏi nhất không có.


Trong đêm chàng thanh niên đã nghiên cứu một báo cáo dài sáu giờ từ Gidi Barzilai về chủ đề sản phẩm thế kỷ XVIII của nhà sản xuất đồ gỗ Đức-Pháp, Riesener, và một miêu tả đầy đủ của kẻ chỉ điểm về cấu tạo của toà nhà Winkler. Đội theo dõi yarid hoàn tất việc truyền đạt thông tin với việc thông báo các chuyển động của người gác đêm, được quan sát nhiều lần và nhiều địa điểm về ánh sáng ở bên trong cũng như bên ngoài ngân hàng trong đêm.


Cũng trong ngày thứ Hai đó. Mike Martin đợi cho đến năm giờ chiều trước khi đạp chiếc xe cà khổ của mình qua cái sân lát gạch đến cửa sau của khu vườn Kulikov, mở cửa, và đi ra.


Anh lên xe và bắt đầu xuôi phố theo hướng lối sang sông gần nhất, tại nơi nơi cầu Jumhuriya từng đứng trước khi những chiếc Tornado chú ý đến nó. Anh quay sang góc, ngoài tầm nhìn của biệt thự, và nhìn thấy chiếc ôtô đầu tiên. Rồi chiếc thứ hai, đỗ xa hơn. Khi hai người đi ra từ chiếc xe thứ hai và ra đứng giữa đường, dạ dày anh bắt đầu thắt lại. Anh cả gan ném một cái liếc nhìn về phía sau, hai người đàn ông từ chiếc xe kia đã phong toả mọi lối ra.


Biết mọi chuyện đã lộ, anh đạp xe đi. Không còn việc gì khác để làm nữa rồi. Một trong những người đàn ông đứng trước mặt anh chỉ sang vệ đường.


- Này anh kia, hắn ta kêu lên. Lại đây.


Anh dừng lại dưới các tán cây ven đường. Ba người đàn ông khác hiện ra, toàn là lính. Súng của họ chĩa thẳng vào anh. Anh chầm chậm giơ hai tay lên.


Chương trước | Chương sau

↑↑
Mật mã Da Vinci - Dan Brown

Mật mã Da Vinci - Dan Brown

Giới thiệu: Trong khi đang công tác ở Pari, nhà biểu tượng học của trường Đại học

15-07-2016 106 chương
Nhà giả kim - Paulo Coelho

Nhà giả kim - Paulo Coelho

Trích đoạn: Fatima "Nếu em là một phần của vận mệnh anh thì sẽ có một

15-07-2016 43 chương
Ngày anh im lặng

Ngày anh im lặng

Thêm một cú điện thoại, người đồng nghiệp mới mời em đi uống cà phê, đàn ông

29-06-2016
Người tình của cha

Người tình của cha

Cha tôi nói, trong gia đình, quan trọng là người đàn bà. Giữ được êm ấm hay đổ vỡ

30-06-2016
Có một loài hoa trắng

Có một loài hoa trắng

Mọi chuyện đến quá nhanh khiến tôi khó xử, tôi không biết mình có đủ dũng khí để

26-06-2016
Ma

Ma

Ma....ma.................. Tiếng thằng Tuấn la thất thanh khi đi qua bụi duối trước cửa

24-06-2016
Ngồi bàn đầu

Ngồi bàn đầu

Phải cố gắng lắm tôi mới về được đến nhà, lúc đi trên đường mấy lần trong

24-06-2016
Anh Bư

Anh Bư

Còn Nhiên, Nhiên mang trong mình nhiều vết nhơ. Nhiên không có quyền bước vào thế giới

24-06-2016