Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe


Tác giả:
Đăng ngày: 15-07-2016
Số chương: 23
5 sao 5 / 5 ( 48 đánh giá )

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe - Chương 20

↓↓

Những chiếc tàu đậu ngoài biển có thể còn đủ thời gian để chạy thoát, nhưng những đội quân đang đóng trên mặt đất ở các thành phố Arập Xêut này thì không thể. Về phía đông nó có thể lan rộng về phía Bahrain và các sân bay của Liên quân, làm nước biển nhiễm xạ, đi qua cho đến bờ biển của Iran, tại đó sẽ loại trừ những người mà Saddam Hussein từng tuyên bố là không xứng đáng được sống - " Bọn Ba Tư, bọn Do Thái,. và ruồi"

bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


- Hắn ta nhất định không thể phóng nó đi được. Paxman nói Hắn không thể có một quả hoả tiễn hay một máy bay có thể làm được việc đó.


Rất xa về phía bắc, giấu mình trong Jebal ở Hamreen, rất sâu trong nòng một khẩu súng với nòng dài 180 mét và tầm bắn hàng nghìn km. Cú đấm của Thượng đế đang nằm im lìm nhưng đã sắp được gọi để bay lên.


Ngôi nhà ở Qadisiyah chỉ mới lơ mơ tỉnh dậy và còn chưa chuẩn bị cho các vị khách đến vào lúc bình minh. Khi người chủ nhà xây nó vào nhiều năm trước. nó đã được đặt vào giữa một vườn hoa lan lớn. Nó nằm đó cách bốn biệt thự ở Mansour mà thiếu tá Zayeeh của Cục phản gián đã chuẩn bị để giám sát đúng ba dặm. Sự lan rộng của vùng ngoại ô tây nam của Baghdad đã bao bọc lấy ngôi nhà, và đường cao tốc Qadisiyah lao lên qua cái đã từng là những đồng ruộng trồng lê và mơ.


Nó vẫn là một ngôi nhà đẹp thuộc sở hữu của một người giàu có từ lâu đã về hưu, kín cổng cao tường và vẫn giữ được một số cây ăn quả ở cuối vườn.


Có hai chiếc xe tải lớn đầy lính AMAM dưới sự chỉ huy của một thiếu tá, và họ không tham dự vào vở kịch. Khóa của cửa chính đã bị phá, cánh cổng bị đá tung, và bọn lính ùa vào, phá tung cánh cửa trước và đánh người hầu đang cố ngăn chúng lại.


Họ chạy qua ngôi nhà, lật tung các chạn bát và đồ đạc. trong khi người đàn ông chủ ngôi nhà kinh hoàng cố phòng thủ và bảo vệ vợ mình.


Bọn lính xông vào khu đất trống và không tìm thấy gì. Khi người đàn ông cầu xin chúng nói cho ông ta biết họ muốn tìm gì, viên thiếu tá chỉ nói ông ta biết quá rõ còn gì. và sự kiểm tra lại tiếp tục.


Sau ngôi nhà, bọn lính khám đến khu vườn. T'ại góc vườn gần bức tường chúng tìm thấy đất mới được đào lên. Hai trong số chúng giữ lấy người đàn ông trong khi bọn còn lại đào. Ông kêu lên là mình không biết thế quái quỷ nào mà đất lại được đào lên, rằng ông ta không giấu cái gì hết. Nhưng chúng đã tìm thấy.


Đó là một cái túi rộng và có thể nhìn thấy. Khi chúng đổ nó ra, một bộ điện đàm. Người đàn ông chẳng hề biết gì về đài phát thanh, cũng không thể biết rằng chiếc máy phát tín hiệu Morse ở trong cái túi chẳng liên quan gì tới máy phát siêu hiện đại qua vệ tinh mà Mỉke Martin sử dụng và vẫn nằm dưới sàn nhà ở vườn nhà Bí thư thứ nhất Kulikov. Đối với viên thiếu tá AMAM. cứ điện thoại là đồng nghĩa với gián điệp, và chỉ cần như thế là đã đủ.


Ông già bắt đầu than vãn rằng ông chưa từng nhìn thấy nó trước đây, rằng ai đó hẳn là đã vượt tường vào ban đêm để chôn nó ớ đó, nhưng bọn lính AMAM đánh ông ngã bằng báng súng, và vợ ông cũng bị chúng đánh khi bà kêu lên.


Viên thiếu tá kiểm tra chiến lợi phẩm, và thậm chí hắn có thể nhìn thấy một số ký tự trên cái túi dường như là chử Hebrew.


Họ không hề muốn bắt người hầu của ngôi nhà hay bà vợ - mà chỉ người đàn ông, ông đã vào khoảng 70 tuổi, nhưng chúng lôi ông đi xềnh xệch, mắt cá và cổ tay bị bọn lính túm lấy, và ông ta bị đẩy lên thùng xe tải giống như một cái túi đựng cá.


Viên thiếu tá rất hoan hỉ. Hành động theo một lời tố cáo nặc danh, hắn ta đã hoàn thành được nhiệm vụ của mình. thượng cấp của hắn hẳn sẽ mừng lắm. Đó không phải là một trường hợp cho nhà tù Abu Ghraib. Hắn chở người tù của mình đến đại bản doanh AMAM và Nhà tập. Hắn lý luận, đó là chỗ duy nhất cho bọn gián điệp Israel.


Cùng ngày hôm đó l6 tháng Hai. Gidi Barzilai đang ở Paris, cho Michel Levy xem bức tranh. Ông già chuyên gia đồ cổ cũng là một sayan rất vui mừng vì có thể giúp được cho Gidi. Trước đây ông ta mới được nhờ làm việc có một lần, việc chuyển một số đồ đạc cho một katsa để cố xâm nhập một tòa nhà nào đó, vào vai một tay trung gian đồ cổ.


Với Michel Levy thật là mừng và thật phấn khích, một cái gì đó làm sống động trở lại cuộc sống của một người đã luống tuổi khi được Mossad hỏi và có thể giúp đỡ theo một cách nào đó


- Boulle. ông ta nói.


- Xin ông tha lỗi nhé, Barzilai nói, nghĩ mình đã quá đường đột.


- Boulle. ông già nhắc lại. Được đánh vần là B-u-h-l. Nghệ nhân làm bàn nổi tiếng người Pháp. Phong cách của ông ta, anh thấy không, thật rõ nét. Anh có thấy không. Không phải ông ta làm đâu. Thời đó thì quá xa đối với ông ta.


- Thế thì ai làm?


Mexừ Levy khoảng hơn 80 tuổi, với mái tóc trắng mảnh trên một cái sọ méo mó, nhưng đôi má hồng hào và đôi mắt sáng vẫn long lanh niềm vui sống. ông đã nói cho kaddish cho nhiều người trong thế hệ của ông ta.


- Tốt, Boulle khi chết đã nhường lại cửa hàng của mình cho người mà ông ta bảo trợ, German Oeben. Rồi theo truyền thống ông này lại để lại cho một German khác là Riesener. Tôi nghĩ đây có thể vào thời Riesener. Chắc chắn là do bàn tay một người thợ khéo, có thể chính là người chủ. Anh định sẽ mua nó


Ông ta nheo mắt, dĩ nhiên rồi. ông biết Mossad không bao giờ mua đồ để sưu tầm nghệ thuật cả. Đôi mắt ông ta nhảy múa những ánh nhìn tinh quái.


- Chỉ cần biết là tôi đang quan tâm đến nó. Barzilai nói.


Levy rất vui vẻ. Họ lại giở những ngón nghề cũ ra rồi đây. Ông sẽ không bao giờ biết được, nhưng như thế này cũng đã vui chán rồi.


- Làm những bàn đó...


- Bàn làm việc chứ, Levy nói.


- Thôi được rồi, làm những cái bàn đó có ngăn bí mật nào ở bên trong không?


- Càng lúc càng tốt hơn rồi đây - vui thật! Ôi, thật phấn khích làm sao!


- A, ý anh muốn nói đến một cachette phải không. Dĩ nhiên rồi. Anh biết đấy, anh bạn trẻ, nhiều năm trước, khi một người có thể bị gọi ra và bị giết trong một cuộc dấu súng về một vấn đề danh dự, một quý bà có việc gì đó thật là bí mật. Không có điện thoại, không fax. không vi deo vào thời đó. Mọi thứ tư tưởng kỳ dị nhất của người tình bà ta sẽ được viết ra giấy. Thế thì bà ta phải giấu chồng mình như thế nào? Không phải trong một tủ sắt trong tường - họ không hề có đâu. Cũng không phải trong một cái hộp sắt - chồng bà ta có thể sẽ đòi đưa chìa khóa.


Thế thì những người trong xã hội thời đó cần phải có những loại đồ gỗ có cachette. Không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng có lúc Cần phải làm thật khéo, nếu không sẽ lộ mất.


- Thế làm cách nào người ta có thể biết nếu một thứ đồ như thế... nghĩ đến chuyện mua một cái cachette như thế.


Ôi thế này thì tuyệt quá rồi. Người đàn ông từ Mossad sẽ không đi mua bureau của Riesner, anh ta đang cần phá một cái như thế.


- Anh có muốn nhìn một cái không? Levy hỏi.


Ông ta gọi nhiều cú điện thoại, và một lúc sau họ cùng ra khỏi cửa hàng của ông ta và lên một chiếc xe bus. Đó là một người môi giới khác. Levy trò chuyện một lúc ngắn, người đàn ông gật đầu và để họ lại một mình. Levy đã nói nếu ông ta có thể đảm bảo một vụ mua bán, thì sẽ chỉ mất một khoản phí không đáng kể, và chỉ có thế. Người môi giới tỏ ra hài lòng: vẫn thường là như thế trong thế giới đồ cổ.


Chiếc bàn mà họ xem xét rất giống cái ở Vienna.


- Bây giờ, Levy nói, cái cachette sẽ không rộng lắm đâu,. Nó có thể ở bên ngoài cũng như gắn ở bên trong. Nó sẽ rất mỏng. thẳng đứng hoặc nằm ngang. Có khả năng không rộng hơn hai cm đâu, giấu trong một cái ngăn có vẻ như rất cứng, rộng tới ba cm, nhưng trên thực tế có hai ngăn bằng gỗ với cái cachette nằm ở giữa. Đầu mối là cái nút bấm.


Ông kéo một trong hai ngăn trên cùng ra.


- Đây này. ông ta nói.


Barzilai sờ bằng đầu ngón tay cho đến đáy.


- Vòng quanh xem nào.


- Chẳng có gì cả. viên katsa nói.


- Thế là bởi vì chẳng có gì thật, Levy nói. Không phải ở trong cái ngăn này. Nhưng có thể có một cái nút hoặc lẫy gì đó.


Một cái nút rất mềm. Anh ấn vào đó đi: một cần gạt, anh quay nó đi; nếu là một thanh ngang. Anh hãy dịch chuyển sang hai bên, và xem điều gì xảy ra.


- Cái gì sẽ xảy ra?


Một tiếng động nhẹ, và một mẩu hoa văn bằng ngà thò ra, nhảy lên. Bên dưới đó là cái cachette.


Ngay cả sự tài hoa của người thợ đồ gỗ thế kỷ XVIII cũng có chỗ hạn chế. Trong suốt một giờ đồng hồ, mexừ Levy dạy cho viên katsa về mười chỗ cơ bản cần xem xét cái lẫy bí mật có thể làm mở được cái ngăn đó.


- Đừng bao giờ cố đẩy mạnh quá để tìm. Levy nhấn mạnh vì nó đề lại dấu vết trên gỗ đấy.


Ông ta liếc nhìn Barzilai và mỉm cười. Barzilai thết ông già một bữa trưa thịnh soạn ớ nhà hàng Coupole, rồi đi taxi ra sân bay để quay về Vienna.


Sáng sớm hôm đó, ngày 16 tháng Hai, thiếu tá Zayeed và đội của mình cũng có mặt ở ngôi biệt thự đầu tiên trong số ba biệt thự sẽ bị khám xét. Hai cái khác đã bị niêm phong, với những người án ngữ ở tất cả các lối vào và những người canh gác cẩn mật ở bên trong.


Viên thiếu tá vô cùng lịch sự, nhưng lệnh của anh ta là không thể chống lại. Không giống người của AMAM cách đó một dặm rưỡi tại Qadisiyah, người của Zayeeh là các chuyên gia, rất ít gây ra các thiệt hại trong khi khám nhà, và rất hiệu quả trong việc tìm kiếm của mình.


Bắt đầu từ tầng trệt, tìm kiếm lối vào của một địa điểm bí mật dưới các mái tôn. rồi đi khắp nhà, từng phòng một, từng tủ một, từng hầm một. Khu vườn cũng bị tìm kiếm, nhưng không dấu vết nào được tìm thấy Trước buổi trưa, viên thiếu tá cuối cùng cũng thỏa mãn: xin lỗi những người sống trong đó và rời đi. Anh ta bắt tay vào khám xét ngôi nhà kế bên.


Tại căn phòng dưởi đại bản doanh của AMAM tại Saadun, ông già đang bị treo ngược. cổ tay cổ chân buộc chặt vào một cái bàn gỗ và xung quanh là bốn chuyên gia đang khai thác lời khai. Ngoài những người đó ra, còn có một bác sĩ, và tướng Omar Khatib bàn bạc với trung sĩ Ali ở góc phòng.


Chính người chỉ huy của AMAM đã quyết định danh mục các đòn tra tấn sẽ được thực hiện. Trung sĩ Ali nhướng lông mày; anh ta có thể, anh ta nhận ra, chắc chắn cần đến mọi biện pháp trong ngày hôm nay. Omar Khatib gật đầu đồng tình và đi ra. ông ta có giấy hẹn gặp ở tầng trên.


Ông già tiếp tục van xin nói rằng mình chẳng biết gì về máy phát, và đã không vào vườn từ nhiều ngày nay do thời tiết xấu Những tay hỏi cung chăng mảy may quan tâm. Chúng treo cả hai mắt cá chân lên một cái cán chổi đang chạy đi chạy lại. Hai trong số bốn tên giơ chân ông ta lên đến vị trí vừa đủ với đế giày hướng vào trong phòng, trong khi Ali và tên đồng nghiệp còn lại của mình dốc xuống từ trên tường những luồng điện mạnh.


Khi trận đòn vào lòng bàn chân bắt đầu, ông già thét lên, và khi tất cả đã làm xong, cho đến khi mất giọng, rồi tái nhợt. Một gáo nước lạnh ngắt từ trong phòng phun ra, nơi một loạt ca nước đã được xếp sẵn, làm ông ta tỉnh lại.


Đôi khi, trong buổi sáng, những người còn đang ở lại, để thả lỏng cơ bắp cho đôi tay, đã trở nên mệt mỏi với những đòn đánh. Khi chúng dừng lại, những chiếc cốc uống xong bị vứt thẳng vào chân người tù. Rồi, khi đã lại sức, chúng tỉếp tục đánh. Giừa những lần tỉnh đi tỉnh lại, ông già tiếp tục phản đối rằng mình còn chẳng biết bật đài radio và do đó chắc là có nhầm lẫn gì đó.


Vào khoảng giữa buổi sáng, da thịt cả hai bàn chân đã rách rưới hết cả và những vụn xương trắng rơi ra qua dòng máu. Viên trung sĩ Ali gật đầu và ra hiệu rằng đã có thể ngừng được rồi. Hắn ta châm một điếu thuốc và nhâm nhi làn khói trong khi trợ tá của hắn dùng một thanh sắt ngắn để bẻ xương chân từ mắt cá lên đầu gối.


Ông già van vỉ viên bác sĩ, với tư cách là người điều trị bệnh nhân hãy giúp ông, nhưng viên bác sĩ của AMAM nhìn chằm chằm lên trần nhà. Hắn ta đã có lệnh, là phải giữ cho tù binh sống và còn suy nghĩ được.


Bên kia thành phố, thiếu tá Zayeed đã kết thúc việc lục soát đối với ngôi biệt thự thứ hai vào lúc 4 giờ chiều, ngay trước khi Barzilai và Michel Levy đứng dậy khỏi bàn ăn ở Paris. Lại lần nữa anh ta không tìm thấy gì hết cả. Nhã nhặn xin lỗi cặp vợ chồng kinh hoàng thấy căn nhà mình bị gỡ ra từng mảnh một cách có hệ thống, anh ta rời đi với đội của mình đi về ngôi biệt thự thứ ba và là cuối cùng.


Ở Saadun, ông già ngất đi mỗi lúc một nhanh hơn, và viên bác sĩ bảo các nhân viên tra tấn rằng ông ta cần có thời gian dể hồi phục. Một mũi tiêm đã được chuẩn bị sẵn và được phóng vào động mạch chủ của người tù. Nó có hiệu quả tức thì, đưa ông ta từ trạng thái lâm sàng về tỉnh táo và kích thích thần kinh ông ta khả năng suy nghĩ.


Sáu giờ ông già lại rơi vào trạng thái mê man, và lần này viên bác sĩ quá chậm trễ. Hắn ta làm cuống cuồng, mồ hôi sợ hãi chảy đầy trên mặt, nhưng mọi thứ thuốc kích thích, được tiêm trực tiếp vào tim ông già, đều không có hiệu quả. Ali rời khỏi phòng và quay trở lại sau 5 phút cùng Omar Khatib. Viên tướng nhìn vào cái xác, và hàng bao nhiêu năm kinh nghiệm cho ông ta biết đến lúc này không thể cầu viện vào bất kỳ thứ thuốc nào nữa. Ông ta quay lại, và lòng bàn tay mở rộng của ông ta nắm lấy viên bác sĩ đang run cầm cập đập thẳng vào mặt anh ta.


Sức mạnh của cái tát cũng như uy danh của ông ta khiến viên bác sĩ nằm bẹp trên sàn nhà giữa những dụng cụ y tế của mình.


- Thằng chó. Khalib rít lên. Ra khỏi đây ngay.


Viên bác sĩ thu dọn vội đồ đạc cho vào túi và bò ra khỏi phòng. Đồ tể nhìn vào công cụ của Ali. Có mùi mồ hôi trong không khí mà cả hai đều đã rất quen thuộc, và một thứ trộn lẫn giữa mồ hôi, sự kinh hoàng, nước tiểu, máu, đồ nôn, và mùi thuốc gây mê của một thứ thức ăn quá lửa.


- Cho đến lúc cuối lão ta vẫn khăng khăng, Ali nói. Tôi xin thề, nếu lão ta biết gì, chúng ta sẽ có được ngay.


- Cho lão ta vào trong một cái bao, Omar Khatib lạnh lùng, và chuyển về cho vợ lão ta để chôn cất.


Đó là một chiếc túi to màu trắng dài sáu fít và rộng hai fit. và được để ở bậc cầu thang của ngôi nhà ở Qadisiyah vào lúc 10 giờ tối. Rất chậm và rất khó khăn, vì cả hai người đều đã già cả. người vợ góa và người hầu phòng lôi cái túi vào, kiểm tra ở bên trong, và để nó lại trên bàn ăn. Người đàn bà ngồi phịch xuống cuối bàn và bắt đầu lên tiếng than vãn.


Người hầu tên Talat đi ra chỗ điện thoại nhưng nó đã bị gỡ ra khỏi tường và không còn hoạt động. Cầm lấy sổ điện thoại của bà chủ, mà anh ta không thể đọc được. anh ta đi xuống phố đến nhà người dược sĩ và nhờ người hàng xóm thử liên lạc với cậu chủ - ai trong số các cậu chủ cũng dược.


Cùng vào giờ đó, trong khi người dược sĩ cố gọi điện trong Iraq qua hệ thống điện thoại trong nước, và Gidi Barzilai, trở về Vienna, đang chuyển một bức điện khẩn về cho Kobi Dror, thiếu tá Zayeed đang báo cáo về ngày làm việc không kết quả của mình cho Hassan Rahmani.


- Thế thì có nghĩa nó không nằm ở đó, anh ta nói với chỉ huy Cục Phản gián. Nếu có, chúng tôi đã tìm ra rồi. Thế thì chỉ còn lại ngôi biệt thự thứ tư, của tay ngoại giao đó thôi.


- Anh tin là mình không nhầm chứ? Rahmani hỏi. Cũng có thể là ngôi nhà khác thì sao?


- Không. thưa ngài. Ngôi nhà gần bốn biệt thự nhất nằm bên ngoài khu vực mà chúng tôi định vị được. Nguồn gốc của những lần chuyển tin nhanh đó là nằm ở trong hình viên kim cương này trên bản đồ.


Tôi xin thề đấy. .


Rahmani lưỡng lự. Các nhà ngoại giao thật là quỷ quái để mà có thể kiểm tra, luôn luôn sân sàng gửi lời phàn nàn lên bộ Ngoại giao. Để vào được trong nhà của đồng chí Kulikov, anh có thể phải lên cấp cao


- cao đến mức anh có thể tới được.


Khi viên thiếu tá đã đi, Rahmani gọi điện cho Bộ Ngoại giao. Anh may mắn: Bộ trưởng Ngoại giao, người đã đi liên tục trong mấy tháng nay. đang ở Baghdad. Hơn thế nữa, ông ta đang ngồi ở phòng làm việc của mình. Rahmani có được lời hẹn gặp vào lúc 10 giờ sáng hôm sau.


Viên dược sĩ là một người đáng mến, đã cố gọi điện suốt trong đêm. Ông không liên lạc được với người con trai, nhưng, sử dụng một đầu mối liên lạc trong Quân đội, ông đã chuyển được tin cho đứa con út của người quá cố. Ông không thể trực tiếp nói chuyện với anh ta, nhưng bên Quân đội sẽ chuyển tin đó hộ ông.


Thông tin đến được với người con trai út tại căn cứ của anh rất xa Baghdad vào bình minh. Ngay khi nghe tin, viên sĩ quan đã lên ôtô lái xe trở về. Thường thì anh chỉ mất không đầy hai giờ lái xe. Nhưng lần này, ngày 17 tháng Hai, anh mất tới sáu tiếng. Có đầy các đội tuần tra và chốt giao thông. Với cấp bậc của mình, anh ta được phép lái xe lên đầu hàng, không phải xếp hàng, và được vẩy tay cho qua.


Điều này không thể làm được với các cây cầu gẫy. Tại tất cả cầu anh phải dừng xe đợi phà. Mãi đến giữa trưa anh ta mới về được đến căn nhà của bố mẹ anh ở Qadisiyah. Mẹ anh chạy ra ôm chầm lấy anh và kêu gào trên vai anh. Anh cố hiểu được các chi tiết chính xác những việc đã xảy ra, nhưng bà không còn trẻ nữa và đã bị lên cơn động kinh. Cuối cùng, anh phải bế bà lên và đưa bà về phòng. Trong sự hỗn loạn những dấu vết nhà binh để lại mọi nơi trên sàn nhà tắm, anh ta tìm thấy một cái chai thuốc ngủ bố anh đã sử dụng khi mùa đông lạnh đưa mua ở hiệu thuốc. Anh đưa cho mẹ hai viên, và bà nhanh chóng thiếp đi.


Trong bếp anh ra lệnh cho ông già Talat pha cà phê cho cả hai người, và họ ngồi vào bàn trong khi người hầu miêu tả điều đã xảy ra kể từ bình minh ngày hôm trước. Khi ông ta dừng lại, ông chỉ cho cậu chủ cái hố trong vườn nơi bọn lính đã tìm thấy cái gói với bộ đồ điện đàm. Chàng thanh niên khám xét bờ tường và phát hiện những dấu vết mà kẻ đột nhập đã để lại trong đêm để lẻn vào chôn nó. Rồi anh ta trở lại ngôi nhà.


Hassan Rahmani phải ngồi đợi, điều mà anh không thích, nhưng anh có cuộc hẹn gặp với Bộ trưởng Ngoại giao, Tariq Aziz, ngay trước 11 giờ.


- Tôi không nghĩ hiểu rõ điều anh nói lắm. vị bộ trưởng tóc màu ghi nói, nhìn một cách thông minh qua cặp kính. Các đại sứ quán được phép liên lạc với thủ đô của họ qua radio, và những lần phát sóng của họ luôn được mã hóa.


- Phải, thưa Bộ trưởng, và chúng đến từ tòa nhà đại sứ quán. Đó là một phần trong công tác ngoại giao. Nhưng đây thì khác. Chúng ta đang nói về một máy phát bí ẩn, được các gián điệp sử dụng, gửi đi các thông tin cực ngắn cho một máy phát mà chúng tôi tin là không phải ở Matxcơva mà ở gần hơn nhiều.


- Những lần phát cực ngắn? Aziz hỏi.


Rahmani giải thích đó là cái gì.


- Tôi vẫn không thể theo kịp anh dược. Thế tại sao một nhân viên KGB nào đó - và hẳn đây là một chiến dịch của KGB - lại gửi đi những thông điệp cực ngắn từ nhà của Bí thư thứ nhất trong khi họ có quyền tuyệt đối được gửi chúng từ những máy phát mạnh hơn nhiều từ đại sứ quán?


- Điều này thì tôi không biết.


- Thế thì anh phải cho tôi những lời giải thích tốt hơn mới được, thưa tướng quân. Thế anh có ý tưởng nào về những việc đang xảy ra ở bên ngoài văn phòng của anh không? Chẳng nhẽ anh không biết rằng hôm qua mãi muộn tôi mới từ Matxcơva về sau những lần thảo luận căng thẳng với ngài Gorbachev và đại diện Yevgeny Primacov của ông ta, người đã ở đây vào tuần trước? Anh không biết rằng tôi đã mang theo mình một đề nghị hòa bình mà, nếu Rais chấp nhận - và tôi sẽ trình lên ông trong hai giờ nữa - có thể khiến Liên Xô phản đối trong Hội đồng Bảo an và chặn Mỹ tấn công chúng ta sao? Và trước tất cả những việc đó, vào chính lúc này, anh lại bảo tôi làm nhục Liên Xô bằng cách cho lục soát biệt thự của Bí thư thứ nhất của họ? Thẳng thắn mà nói, thưa tướng quân, anh có lẽ bị điên rồi đó.


Cuộc nói chuyện đã kết thúc như vậy. Hassan Rahmani rời Bộ cảm thấy đã tuyệt vọng. Dù sao, cũng có một điều mà Tariq Aziz không cấm. Trong những bức tường của ngôi nhà, Kulikov có thể là bất khả xâm phạm. Trong xe anh ta có thể là không thể chạm tới. Nhưng đường phố thì không thuộc về Kulikov.

Chương trước | Chương sau

↑↑
Em ở đâu - Marc Levy

Em ở đâu - Marc Levy

Giới thiệu: Thủa niên thiếu, họ luôn ở bên nhau. Với niềm lạc quan của tuổi trẻ,

15-07-2016 10 chương
Nhà giả kim - Paulo Coelho

Nhà giả kim - Paulo Coelho

Trích đoạn: Fatima "Nếu em là một phần của vận mệnh anh thì sẽ có một

15-07-2016 43 chương
Mưa Bruxelles

Mưa Bruxelles

(khotruyenhay.gq - Tham gia viết bài cho tập truyện "Rồi sẽ qua hết, phải không?") Bruxelles

25-06-2016
Đi ngang đời nhau

Đi ngang đời nhau

Em Ta gặp nhau thế nào anh nhỉ? Em đang phát điên còn anh là một nạn nhân. Nhưng không

23-06-2016
Bí kíp cua trai

Bí kíp cua trai

Lão hơn tôi 8 tuổi, ngày trước lão học giỏi nhất xã lại đẹp trai nên lắm cô theo

24-06-2016

Old school Swatch Watches