Quách Tương nói:
bạn đang xem “Ỷ thiên đồ long ký - Kim Dung” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
- Đại hòa thượng, tôi xem các nhà sư chùa Thiếu Lâm, trừ ông và Vô Sắc thiền sư ra, người nào cũng thật là hồ đồ cổ quái.
Giác Viễn chỉ hừ một tiếng nhưng không đáp lời. Quách Tương nói tiếp:
- Gã Côn Lôn Tam Thánh kia đến chùa Thiếu Lâm, trong chùa không ai địch nổi,? chỉ nhờ hai thầy trò ông đánh đuổi được y, mới bảo toàn được danh dự của môn phái. Họ đã không cám ơn ông thì thôi, lại hung hăng định bắt Trương huynh đệ, không phân biệt trắng đen phải trái, thật chẳng có lý do nào hết.
Giác Viễn thở dài một tiếng, nói:
- Việc đó không trách lão phương trượng và Vô Tướng sư huynh được, chùa Thiếu Lâm vốn có một điều tự qui ?
Nói đến đây, hơi bị đứt đoạn, ông ho lên sù sụ. Quách Tương nhè nhẹ đấm lưng cho ông, nói:
- Ông mệt rồi, nằm ngủ một giấc đi, chuyện đó để từ từ kể sau cũng không muộn.
Giác Viễn thở dài:
- Đúng vậy, tôi mệt lắm.
Trương Quân Bảo đi gom một mớ củi, nhóm một đống lửa, để hơ cho khô quần áo của mình và Quách Tương. Cả ba người ngồi dưới gốc cây to mà ngủ.
Quách Tương ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe có tiếng Giác Viễn lẩm bẩm nói một mình, hình như đang niệm kinh, mơ mơ màng màng tỉnh dậy, chỉ nghe ông ta đọc:
- ? bỉ chi lực phương ngại ngã chi bì mao, ngã chi ý nhập bỉ cốt lý. Lưỡng thủ chi tràng, nhất khí quán xuyên. Tả trọng tắc tả hư, nhi hữu dĩ khứ, hữu trọng tắc hữu hư, nhi tả dĩ khứ khứ ... (... sức của người vừa mới phớt qua bên ngoài da thịt ta, ý của ta đã vào đến xương của người. Hai tay vừa đụng nhau, một khí đã thông qua rồi. Bên trái nặng ắt bên trái cũng nhẹ, bên phải đã đến rồi, bên phải nặng ắt bên phải cũng nhẹ, bên trái đã đến rồi )
Quách Tương bỗng thấy rùng mình: ?Ông ta không đọc kinh Phật kiểu không tức thị sắc, sắc tức thị không, mà lại gì là tả trọng tả hư, hữu trọng hữu hư, giống như võ học quyền kinh thì phải.?
Thấy ông ta ngưng lại một lát rồi niệm tiếp:
- khí như xa luân, chu thân cụ yếu tương tùy, hữu bất tướng tùy khứ, thân tiện tán loạn, kỳ bệnh ư yêu thoái lai chi ? (khí tựa như bánh xe, tùy chỗ nào trên cơ thể cần mà chạy đến, nếu không tới lui theo ý mình, thân sẽ tán loạn, ắt sẽ bị bệnh ở hông và đùi rồi..)
Quách Tương nghe đến câu: ?kỳ bệnh ư yêu thoái lai chi?, trong bụng không còn nghi ngờ gì nữa, biết là ông ta đang đọc những yếu chỉ trong võ học, nghĩ thầm:
- Vị đại hòa thượng này chẳng biết tí võ nào, chỉ vì say mê đọc sách, trong sách có gì, đều coi như thiên kinh địa nghĩa cả. Năm trước gặp ông ta lần đầu trên đỉnh núi Hoa Sơn, đã từng nghe ông ta nói rằng, trên mép lề cuốn kinh Lăng Già do tự tay Đạt Ma lão tổ chép ra, lại có chép bộ Cửu Dương Chân Kinh, ông ta cho rằng đây là kinh thư dạy về thuật giúp người ta được thân thể khỏe mạnh, nên theo đó mà tu tập. Hai thầy trò ông ta không được ai dạy dỗ gì cả, nhưng vô hình chung lại đạt tới mức cao thủ trong thiên hạ. Hồi đó Tiêu Tương Tử đánh ông ta một chưởng, ông chỉ đứng yên mà chịu, vậy mà chính Tiêu Tương Tử lại bị trọng thương, thần công như thế, chưa chắc cha ta hay đại ca ca đã đạt tới được. Hôm nay thầy trò ông ta lại khiến cho Hà Túc Đạo phải cúi đầu bỏ đi, chắc cũng nhờ công lực của Cửu Dương Chân Kinh. Hiện giờ miệng ông ta lẩm bẩm tụng đọc kia, phải chăng chính là bộ kinh đó?
Nàng nghĩ như thế, lại e làm dao động Giác Viễn, chỉ âm thầm ngồi dậy, lắng nghe kinh văn, cố gắng ghi nhớ, tự nhủ:
- Nếu quả thực ông ấy đang đọc bộ Cửu Dương Chân Kinh thì những chỗ ảo diệu tinh vi, không phải chỉ một lúc mà hiểu ngay được. Chi bằng mình cứ ghi nhớ, sau này nhờ ông ta giảng lại cho cũng chưa muộn.
Lại nghe nhà sư già đọc tiếp:
- ? tiên dĩ tâm sử thân, tòng nhân bất tòng kỷ, hậu thân năng tòng tâm, do kỷ nhưng tòng nhân. Do kỷ tắc trệ, tòng nhân tắc hoạt. Năng tòng nhân, thủ thượng tiện hữu phân thốn, xứng bỉ kình chi đại tiểu, phân lý bất thác; quyền bỉ lai chi trường đoản, hào phát vô sai. Tiền tiến hậu thoái, xứ xứ kháp hợp, công di cữu nhi kỹ di tinh ? (trước là dùng tâm để sai khiến thân mình, theo người mà không theo mình, sau sẽ đến lượt thân đi theo tâm, do mình nhưng tùy theo người. Theo mình thì sẽ vướng mắc, do người thì sẽ linh hoạt. Biết theo người thì tay mình có gang tấc, cân đo được sức của người lớn hay nhỏ, một ly một phân cũng không chạy; cân lượng của người dài ngắn, một sợi lông cũng không sai. Lúc trước tiến nhưng sau lại lùi,? mọi chỗ đều ăn khớp với nhau,? công phu càng lâu thì kỹ thuật càng tinh vi..)
Quách Tương nghe đến đó, không khỏi lắc đầu, trong bụng nghĩ thầm: ?Sai rồi, sai rồi. Cha mẹ ta thường nói là, khi lâm địch, phải chế ngự người chứ không để người chế ngự mình. Đại hòa thượng này nói không đúng? Lại nghe Giác Viễn tụng tiếp:
- Bỉ bất động, kỷ bất động, bỉ vi động, kỷ dĩ động. Kình tự khoan nhi phi túng, tương triển vị triển, kình đoạn ý bất đoạn ? (người chẳng động thì ta cũng chẳng động. Người vừa hơi động, ta đã động rồi. Kình tưởng như chậm chạp mà không lơi lỏng, sắp buông ra nhưng lại chưa bung, kình đứt rồi nhưng ý chưa đứt ?)
Quách Tương càng nghe càng thấy mù mờ, từ nhỏ tới giờ nàng học võ chỉ nghe thấy nói tới việc ra tay trước để chế ngự người, ra tay sau thì bị người ta chế ngự mình (tiên phát chế nhân, hậu phát chế ư nhân) lúc nào cũng cần nhanh nhẹn, lúc nào cũng cần đi trước. Bây giờ nghe Giác Viễn đọc quyền kinh yếu quyết, cái gì mà ?theo mình thì sẽ vướng mắc, do người thì sẽ linh hoạt?, khác hẳn với những gì nàng đã biết, nghĩ thầm: ?Khi gặp địch phải ra tay, hai bên tính mệnh đem ra đánh đổi, nếu như mình cứ bỏ mình, theo người, địch bảo mình bên đông thì mình đi bên đông, bảo mình qua bên tây thì mình qua bên tây, thì có khác gì đứng yên cho người ta đánh??
Nàng còn đang trù trừ suy nghĩ nên những gì Giác Viễn đọc tiếp nàng không nghe thấy, nghe mà không vào. Dưới ánh trăng suông, bỗng thấy Trương Quân Bảo cũng đang xếp bằng lắng tai nghe. Quách Tương nghĩ thầm: ?Không cần biết những gì ông ta đọc đúng hay không đúng, ta cứ ghi nhớ là được. Lão hòa thượng này chấn thương Tiêu Tương Tử, lại dọa cho Hà Túc Đạo chạy dài, đều chính mắt mình trông thấy. Những gì ông ta đọc là pháp môn võ công, ắt phải có lý do cả.? Nghĩ thế nên nàng dụng tâm cố nhớ.
Giác Viễn thuận miệng đọc, chắp chắp nối nối, có lúc lại xen vào vài đoạn kinh Lăng Già, nói về việc Phật tổ trên đảo Lăng Già thuyết pháp trên núi. Nguyên lai bản Cửu Dương Chân Kinh này viết lẫn bên cạnh hay giữa những hàng chữ của cuốn kinh Lăng Già, Giác Viễn đọc sách vốn có điểm hơi lẫn thẫn, cứ thuận miệng mà đọc, nên vì thế cũng đọc luôn cả kinh Lăng Già. Bản kinh Lăng Già này vốn viết bằng chữ Thiên Trúc, Giác Viễn đọc là đọc bản dịch, nên càng thêm lẫn lộn. Quách Tương càng nghe lại càng không mò ra đầu mối, nhưng cũng may là nàng bản tính thông minh, tuy Giác Viễn đọc kinh lẫn lộn qua lại, nàng cũng vẫn nhớ được hai ba thành.
Mặt trăng từ từ chếch về hướng tây, bóng người cũng dần dần dài ra, tiếng tụng kinh của Giác Viễn càng lúc càng nhỏ, âm thanh phát ra mơ hồ không rõ tiếng. Quách Tương khuyên:
- Đại hòa thượng, ông đã mỏi mệt cả ngày rồi, ngủ thêm một giấc nữa đi.
Thế nhưng dường như Giác Viễn không nghe nàng nói, vẫn tiếp tục đọc:
- ? lực tòng nhân tá, khí do tích phát. Hà năng khí do tích phát? Khí hướng hạ trầm, do lưỡng kiên thu nhập tích cốt, chú ư yêu gian, thử khí chi do thượng nhi hạ dã, vị chi hợp. Do yêu triển ư tích cốt, bố ư lưỡng bác, thi ư thủ chỉ, thử khí chi do thượng nhi hạ dã, vị chi khai. Hợp tiên thị thu, khai tiện thị phóng. Năng đổng đắc khai hợp, tiện tri âm dương ? (lực theo người mà mượn, khí do xương sống mà ra. Tại sao khí lại do xương sống mà ra? Khí đi xuống dưới, từ hai vai thu vào trong xương sống, chảy vào eo, khí đó từ trên chạy xuống dưới vậy, nên gọi là hợp. Từ eo chạy vào xương sống, rồi ra hai cánh tay, đi ra tới tận ngón tay, khí đó từ dưới mà chạy lên trên vậy, nên gọi là khai. Hợp nên thu vào, khai nên thả ra. Biết được lẽ khai hợp, tức là biết được âm dương ?)
Ông ta càng tụng đọc, thanh âm càng nhỏ dần, sau cùng không còn nghe thấy gì nữa, chắc đã ngủ thiếp đi rồi. Quách Tương và Trương Quân Bảo không dám kinh động, chỉ cố gắng nhớ những kinh văn vừa mới nghe.
Thời gian trôi đi, trăng đã lặn về hướng tây, từ đâu đến các đàn chim bay lại, làm đen cả một vùng. Lại thêm độ tàn một bữa ăn, phương đông trời sáng dần, chỉ thấy Giác Viễn mắt nhắm nghiền, vai xuôi xuống, tĩnh tọa không động đậy, nét mặt trông như đang mỉm cười.
Trương Quân Bảo chợt quay đầu, thấy sau gốc cây có bóng người thấp thoáng, nhưng cũng kịp nhìn thấy một góc áo cà sa màu vàng. Y giật mình kinh hãi, quát lớn:
- Ai đó?
Chỉ thấy một lão tăng gầy cao từ sau gốc cây bước ra, chính là thủ tọa La Hán Đường Vô Sắc thiền sư. Quách Tương vừa mừng vừa lo, hỏi:
- Đại hòa thượng, sao ông nhất định không bỏ cuộc, đuổi tới tận đây? Chẳng lẽ không bắt thầy trò y về chùa không được hay sao?
Vô Sắc nói:
- Thiện tai, thiện tai! Lão tăng biết lẽ phải trái, đâu phải là người chấp nhặt cái qui luật cũ từ đời nảo đời nao? Lão tăng đến đây từ lúc nửa đêm, nếu như muốn động thủ, đâu có chờ đến bây giờ. Giác Viễn sư đệ, Vô Tướng sư đệ chỉ huy tăng chúng trong Đạt Ma Đường đang tìm ở hướng đông, các ngươi mau nhắm thẳng hướng tây mà chạy.
Chỉ thấy Giác Viễn vẫn cúi đầu nhắm mắt, dường như chưa tỉnh. Trương Quân Bảo tiến lên thưa:
- Sư phụ tỉnh dậy đi, thủ tọa La Hán Đường đang nói chuyện với sư phụ đó.
Giác Viễn vẫn không động đậy. Trương Quân Bảo kinh hoảng chạy tới, giơ tay sờ vào trán ông ta, thấy lạnh ngắt, hóa ra đã viên tịch từ lâu rồi. Trương Quân Bảo đau đớn quá, phục xuống kêu lên:
- Sư phụ, sư phụ!
Thế nhưng ông ta làm sao có thể sống lại được. Vô Sắc thiền sư chắp tay hành lễ, đọc một bài kệ:
Chư phương vô vân ế,
Tứ diện giai thanh minh.
Vi phong suy hương khí,
Chúng sơn tĩnh vô thanh.
Kim nhật đại hoan hỉ,
Xá khước nguy thúy thân.
Vô sân diệc vô ưu,
Ninh bất đương hân khánh?
(Bốn phương không mây phủ,
Mọi mặt đều sáng trong,
Gió nhẹ đưa hương tới,
Tĩnh lặng núi thinh không.
Hôm nay thật hoan hỉ,
Cởi được thân mong manh.
Không giận cũng không lo,
Lẽ đâu không chúc khánh?)
Tụng xong ông lặng lẽ bỏ đi.
Trương Quân Bảo khóc lóc một hồi, Quách Tương cũng sụt sùi mãi. Tăng chúng chùa Thiếu Lâm khi viên tịch đều hỏa hóa. Cho nên hai người đi kiếm cành khô thiêu pháp thân của Giác Viễn. Quách Tương nói:
- Trương huynh đệ, tăng chúng chùa Thiếu Lâm chắc chưa bỏ qua cho ngươi đâu, ngươi nên hết sức cẩn thận. Chúng ta từ biệt nhau nơi này, sau này có lúc gặp lại.
Trương Quân Bảo gạt lệ đáp:
- Quách cô nương, cô đi đâu? Cho tôi đi theo với được không?
Quách Tương thấy y hỏi mình đi đâu, trong lòng chua chát, nói:
- Ta chân trời góc biển, hành tung không nhất định, chính mình cũng chưa biết đi đâu. Trương huynh đệ, ngươi tuổi còn nhỏ, lại không có chút lịch duyệt giang hồ nào, tăng chúng chùa Thiếu Lâm đang đi tìm bắt ngươi ở hướng đông, chỉ biết thế.
Nàng tháo chiếc vòng đeo tay đưa cho y, nói:
- Ngươi đem chiếc vòng này đến thành Tương Dương kiếm cha mẹ ta, hai ông bà ắt sẽ đối đãi với ngươi tử tế. Chỉ cần ngươi ở với cha mẹ ta thì dù tăng chúng chùa Thiếu Lâm có hung ác đến đâu, cũng không dám đến tìm ngươi làm khó dễ.
Trương Quân Bảo nuốt lệ nhận chiếc vòng. Quách Tương lại nói tiếp:
- Ngươi nói với cha mẹ ta rằng, ta vẫn khỏe mạnh, ông bà đừng mong đợi. Cha ta rất yêu kẻ thiếu niên anh hùng, thấy ngươi là một nhân tài thế này, không chừng sẽ thu ngươi làm đồ đệ. Em trai ta trung hậu thật thà, chắc sẽ thân thiết với ngươi lắm đấy. Chỉ có chị ta tính tình hơi nóng, mỗi khi không vừa ý, ăn nói chẳng nể nang ai. Chỉ cần ngươi ngoan ngoãn vâng lời, thì không sao cả.
Nói xong nàng quay đầu đi thẳng.
Trương Quân Bảo thấy trời đất mênh mông nhưng sao không có chỗ nào cho mình an thân, đứng trước đống tro hỏa táng sư phụ trầm ngâm cả nửa ngày, mới ra đi. Đi được một quãng, chợt quay đầu, gánh đôi thùng sắt sư phụ để lại, thất thểu bước đi. Trong núi rừng hoang vu, một thiếu niên gầy gò lặng lẽ theo hướng tây mà đi, lòng buồn rười rượi, nói sao cho xiết cái cảnh thân cô chiếc bóng, lênh đênh không nhà.
Đi được nửa tháng, đã đến cảnh giới tỉnh Hồ Bắc, không còn cách thành Tương Dương bao xa. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm trước sau vẫn không đuổi kịp y chính vì Vô Sắc thiền sư có lòng che chở, cố ý dẫn tăng chúng theo hướng đông mà tìm, thành ra hai bên càng lúc càng xa hơn.
Xế trưa hôm đó y đến trước một ngọn núi lớn, thấy cây cối rậm rạp um tùm, sơn thế cực kỳ hùng vĩ. Hỏi thăm những người dân quanh đó, mới biết núi này tên gọi là Võ Đương. Y ngồi dưới chân núi, tựa lưng vào một hòn đá mà nghỉ, bỗng thấy một đôi nam nữ nhà quê từ con đường nhỏ bên núi đi tới. Hai người sánh vai mà đi, trông thật thân mật, rõ ràng là một đôi vợ chồng trẻ. Người đàn bà vừa đi vừa liến thoắng luôn mồm phiền trách anh chồng. Người đàn ông thì chỉ cúi đầu, lặng thinh không đáp.
Bỗng nghe người vợ nói với chồng:
- Anh là một nam tử hán, đại trượng phu, lại không chịu tự mình làm ăn riêng, lại đến ăn nhờ ở đậu chị và anh rể, nếu không đâu đến nỗi bị nhục nhã như thế. Vợ chồng mình còn mạnh chân khỏe tay, tay làm hàm nhai, dù rau dưa cà muối, cơm cháo qua ngày cũng được, có phải thảnh thơi không? Chứ anh không dám tự lập ở riêng, sinh ra trên đời này cũng uổng.
Người đàn ông ậm ừ mấy tiếng, người đàn bà lại tiếp:
- Người đời có nói rằng, ngoài cái chết ra chẳng có cái gì gọi là lớn hết, chẳng lẽ không nhờ vả người khác không sống được hay sao?
Người chồng nghe vợ dồn cho một trận không dám mở lời đáp lại, cái mặt bành bạnh bây giờ tím lại.
- Những câu nói của người vợ từng chữ len vào tim Trương Quân Bảo: ?Anh là một nam tử hán, đại trượng phu, lại không chịu tự mình làm ăn riêng ? nếu không đâu đến nỗi bị nhục nhã như thế ? Người đời có nói rằng, ngoài cái chết ra chẳng có cái gì gọi là lớn hết, chẳng lẽ không nhờ vả người khác không sống được hay sao??
Y nhìn theo đôi vợ chồng nhà quê, đứng ngơ ngẩn một hồi, trong lòng trăn qua trở lại, nghĩ đến những câu của người đàn bà. Chỉ thấy người đàn ông đứng thẳng người lên, không biết nói mấy câu gì với vợ, mà nghe hai người cười rộ lên, tựa hồ người chồng đã quyết chí tự lập, nên cả hai đều sung sướng.
Trương Quân Bảo lại nghĩ tiếp: ?Quách cô nương có nói rằng, bà chị cô ta tính tình nóng nảy, ăn nói không nể mặt ai nên muốn ta chiều lòng bà ấy. Ta đường đường là một người đàn ông, đâu lẽ phải hạ mình quị lụy người khác, cong lưng uốn gối mong được yên thân. Đến như hai người nhà quê kia còn dám hiên ngang đứng ra ở riêng, ta Trương Quân Bảo lẽ nào lại phải nép mình trong hàng rào nhà người ta, chờ người ta sai bảo.
Y nghĩ tới đó, trong lòng đã quyết nên gánh đôi thùng sắt, trèo lên núi Võ Đương, kiếm một cái hang, khát thì tìm suối, đói ăn trái hoang, chăm chỉ tập luyện Cửu Dương Chân Kinh mà Giác Viễn đã truyền cho.
Vài năm sau, bỗng dưng hiểu ra: "Đạt Ma tổ sư là người Thiên Trúc, dẫu có biết viết chữ Trung Hoa, thì văn lý cũng thô sơ. Bộ Cửu Dương Chân Kinh này văn chương kỳ diệu khúc chiết, người nước khác nhất định không sao viết ra được, hẳn là nhân sĩ Trung Thổ đời sau sáng tác. Có lẽ là tăng lữ của chùa Thiếu Lâm, giả thác tên tuổi Đạt Ma tổ sư , viết trong những mép lề cuốn kinh Lăng Già.?
Cái đạo lý đó, người vốn dĩ tin tưởng hoàn toàn vào kinh điển, không dám thay đổi biến hóa như Giác Viễn không sao hiểu được. Có điều lý lẽ không có gì để chứng minh, Trương Quân Bảo lúc đó tuổi còn nhỏ, cũng không biết chắc là suy định của mình có đúng hay không.
Y được Giác Viễn dạy dỗ đã lâu, bộ Cửu Dương Chân Kinh này mười phần cũng biết được năm sáu, trong mươi năm sau nội lực lại càng tiến bộ. Về sau y lại đọc kỹ Đạo Tạng, tâm đắc được phép luyện khí của đạo gia. Một ngày kia, y tại trong núi nhàn du, ngửng lên xem mây bay, nhìn xuống ngắm nước chảy, cảm thấy sở ngộ nên trở về động suy nghĩ liên tiếp bảy ngày bảy đêm, bỗng nhiên quán thông được cái lẽ nhu khắc cương trong võ học, vui sướng quá, ngẩng mặt lên cười một hồi dài.
Chính tiếng cười đó đã khai sinh ra một vị đại tông sư trước chưa có ai mà sau cũng không ai theo kịp. Những gì y tự mình tìm ra, cộng thêm với lẽ xung hư viên thông của Đạo gia, và nội công của pho Cửu Dương Chân Kinh đã khai sáng ra nền tảng cho võ công của phái Võ Đương mà nghìn năm sau vẫn còn chói lọi.
Về sau y du ngoạn phương Bắc đến vùng Bảo Minh, nhìn thấy ba ngọn núi tú lệ hùng vĩ, ?vươn lên đâm vào mây, lại nhân đã sở ngộ về võ học nên tự đặt cho mình tên hiệu Tam Phong. Đó chính là kỳ nhân Trương Tam Phong trong lịch sử võ học của Trung Quốc.
[1] Áo may bằng từng mảnh vải vuông ghép lại với nhau của nhà sư có địa vị cao
Chương trước | Chương sau