Trước đó không lâu, Văn-Thái-Lai đã dùng thủ pháp này mà điểm huyệt Đổng-Triệu-Hòa. Nếu không nhờ Trương-Siêu-Trọng giải huyệt cho thì họ Đổng kia nếu không chết thì cũng trở thành phế-nhân rồi. Lần này Văn-Thái-Lai lại dùng chỉ lực đánh chết Phùng-Huy và Hàn-Xuân-Lâm. Một nhân vật có bản-lãnh như thế thì không thể nào khinh thường được. Vì vậy, Trương-Siêu-Trọng trở nên dè dặt hơn, không dám dửng dưng như lúc ban đầu nữa. Y bỗng sực nhớ ra điều gì bèn lẩm bẩm trong miệng:
bạn đang xem “Thư kiếm ân cừu lục - Kim Dung” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
-"Quên mất! Còn Ngô-Quốc-Đống! Không biết hắn biệt tích nơi nào? Còn vợ chồng Văn-Thái-Lai trốn đi đàng nào?"
Nghĩ vậy, Trương-Siêu-Trọng bèn gọi người trong khách-sạn đến hỏi, nhưng tuyệt nhiên, không ai hiểu tí gì cả!
Chú thích:
(1-) Người xưa quan-niệm về vấn-đề "nam nữ thọ thọ bất thân" hết sức nghiêm khắc. Người nữ chỉ cần bị nam-nhân đụng trúng hay sờ trúng vào thân thể thôi, trong nhiều trường-hợp sẽ bị coi là không còn "tiết sạch giá trong" nữa.
(2-) Với người Trung-Hoa, người dạy mình được gọi là "sư-phụ", bất luận là nam hay nữ, không phân biệt là "thầy giáo" hay "cô giáo" như người Việt-Nam. Vợ của sư-phụ gọi là "sư-mẫu", và chồng của sư-phụ gọi là "sư-công".
(3-) Điệt nữ: cháu gái.
(4-) Cẩu trệ: chó heo; ý ám chỉ kẻ tiểu-nhân hèn hạ.
(5-) Cửu tuyền: chín suối.
(6-) Hổ huyệt: hang cọp
(7-) Bích hổ: thằn lằn.
(8-) Tẩu cẩu: chó săn; ám chỉ những kẻ chuyên nịnh hót đi làm tay sai.
(9-) Mạnh-Thu: đầu thu.
(10-) Tháo thứ: vội vàng, hấp tấp.
(11-) Trong "Phi Hồ Ngoại Truyện" (các bản dịch là "Lãnh Nguyệt Bảo Đao và "Thần Đao Hồ Đại Đởm, tức hậu truyện của Thư Kiếm Ân Cừu Lục), tên của Tổng-Đà-Chủ Hồng Hoa Hội là Trần-Gia-Lạc. Do tác-giả hay dịch-giả về sự "tiền hậu bất nhất" này?
(12-) & (13-): sách... quá... quá... quá mờ! Vì là danh-từ riêng không thay thế được nên phải cố bành mắt ra hết cỡ mà đọc mò vậy thôi chứ không dám chắc chắn 100%. Nếu sai, có dịp sẽ chỉnh lại sau. Xin độc giả thông cảm. Cám ơn nhiều.
(14-) Danh bất hư truyền: tiếng đồn không sai.
(15-) Quý-Nhân: người sang trọng, quyền quý; đồng thời cũng là danh-từ gọi các cô gái được (bị?) tấn cung làm phi-tần của vua.
(16-) Họ ngoại của vua.
(17-) Kim Địch Tú Tài: vị Tú Tài với ống sáo bằng vàng.
(18-) Thiếu-Đà-Chủ: theo định nghĩa thông thường thì có nghĩa là "con của Đà-Chủ". Nhưng trong truyện này thì có thể là "Phó Đà-Chủ". Chúng ta sẽ được hiểu rõ hơn khi đọc những hồi sau.
(19-) Trong bản dịch của Điền-Trung-Tử ghi là "tứ muội", lại lập đi lập lại nhiều lần. Điều này hoàn toàn sai, vì "muội" là em gái. Đã gọi người con gái là "muội" thì không thể nào xưng "em" với cô ta được! Vì vậy xin thay thế bằng hai chữ "tứ tẩu" nghe cho hợp tình hợp lý hơn.
Nếu tính theo vai vế trong Hồng Hoa Hội thì Dư-Ngư-Đồng (thứ 8) đứng trên Lạc-Băng (thứ 11), và đứng dưới Văn-Thái-Lai (thứ 4). Nhưng oái ăm thay, Lạc-Băng lại lấy Văn-Thái-Lai làm chồng! Nếu tính theo vai vế của bang hội mà gọi thì Dư-Ngư-Đồng sẽ gọi Lạc-Băng là "thập nhất muội" chứ không thể nào gọi là "tứ muội" được. Còn nếu vì Văn-Thái-Lai mà gọi thì Dư-Ngư-Đồng phải gọi Lạc-Băng là "tứ tẩu" (chị dâu thứ 4). Giả sử người nào vai vế ở trên Văn-Thái-Lai (như Triệu-Bán-Sơn, đứng thứ 3) cũng không thể gọi Lạc-Băng là "tứ muội" được, mà phải gọi là "tứ đệ-phu" (em dâu thứ 4).
(20-) Cửu tử nhất sinh: chín phần chết, chỉ có một phần sống, ý nói vô cùng nguy hiểm.
(21-) Giang-hồ chia ra làm hai phe: bạch-đạo và hắc-đạo. Phe bạch-đạo bao gồm những người làm việc nghĩa, còn phe hắc-đạo thì bao gồm những kẻ bất lương.
(22-) "Sức thanh-niên" đây có nghĩa là trẻ trung, đầy sinh lực, có thể dùng cho cả nam lẫn nữ.
(23-) Nguyên-văn: "đầu thử kỵ khí".
(24-) Viên bút toán: người giữ sổ sách.
(25-) Nguyên-văn: "dưỡng binh thiên nhật, dụng tại nhất thời".
Chương trước | Chương sau