Pair of Vintage Old School Fru
Tam quốc diễn nghĩa - La Quán Trung

Tam quốc diễn nghĩa - La Quán Trung


Tác giả:
Đăng ngày: 09-07-2016
Số chương: 118
5 sao 5 / 5 ( 114 đánh giá )

Tam quốc diễn nghĩa - La Quán Trung - Hồi 1

↓↓

"Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt."

bạn đang xem “Tam quốc diễn nghĩa - La Quán Trung” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Đức được làm anh cả, Vân Trường làm thứ, Trương Phi làm em út.


Trương Phi lại sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm tiệc tới vườn đào, tập trung tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Dũng sĩ tề tựu có tới hơn ba trăm người, vui say một bữa thật no nê.


Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm yên, chỉ hiềm một nỗi còn thiếu ngựa để cỡi.


Trong lúc đang lo tính, bỗng có một người chạy vào báo:


- Có hai người khách thương, cùng đoàn tùy tùng dẫn bầy ngựa khá đông, đang đi về hướng trang trại này.


Huyền Đức nói:


- Đây là trời giúp ta!


Ba anh em vội ra khỏi trại đón tiếp hai người khách thương mời vào trang trại.


Hai người này chính là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người là Trương Thế Bình, một người là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem về Tràng An bán. Nay vì miền này có giặc nên không thể đem ngựa đi qua được.


Sau khi đã mời được hai vị khách thương vào trại, Huyền Đức hối dọn tiệc đãi đằng, rồi đem ý muốn cứu dân độ thế của mình ra bày tỏ. Hai người khách thương vui lòng hiến cho năm mươi con ngựa khỏe, lại tặng thêm năm trăm lượng vàng bạc, một ngàn cân thép tốt để rèn binh khí và giáp trụ.


Khách cáo từ, Huyền Đức tạ Ơn tiễn chân vài dặm rồi trở về cậy thợ giỏi chế một đôi song cổ kiếm. Vân Trường cũng đánh một cây đại đao "Thanh long yểm nguyệt", gọi là "Lãnh diễm cứ" nặng tám mươi hai cân. Trương Phi rèn một cây trượng "Bát điểm cương mâu".


Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo năm trăm quân hương dũng đến ra mắt quan Thái Thú Lưu Yên.


Lưu Yên hỏi đến danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Huyền Đức còn nói cho Lưu Yên biết mình là tông phái Hoàng Gia. Lưu Yên mừng rỡ nhận Huyền Đức làm cháu (So theo vai vế thì Lưu Yên thuộc vai chú bác).


Vào thành chưa được vài hôm thì đã có tin quân thám thính về báo:


- Tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh năm vớn quân kéo đến quấy nhiễu Trác Quận.


Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức cùng năm trăm quân hương dũng đi trước phá giặc. Anh em Huyền Đức không hề ngần ngại, lãnh quân tiền đạo trực chỉ đến chân núi Đại Hưng, và trông thấy quân giặc cũng vừa kéo đến đó.


Huyền Đức thúc ngựa ra trước trận, bên tả có Vân Trường, bên hữu có Trương Phi yểm hộ.


Huyền Đức giơ roi thét mắng quân giặc:


- Phản loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm.


Trình Viễn Chí nổi giận sai Phó Tướng Đặng Mậu ra đánh. Đặng Mậu vừa nhảy ra đã bị Trương Phi xông đến đâm một xà mâu trúng ngay giữa ngực, ngã lăn xuống ngựa.


Thấy Phó Tướng mình chưa ra tay đã bị hại rồi, Trình Viễn Chí liền múa đao đến đánh Trương Phi, nhưng Vân Trường đã vung Thanh Long Đao cản lại. Uy lực của Vân Trường rất mạnh, Trình Viễn Chí kinh hãi run sợ, trở tay không kịp bị Vân Trường chém một đao đứt làm hai đoạn.


Người sau có thơ khen Vân Trường và Trương Phi như sau:


Anh hùng xuất trận buổi đầu tay,


Một thử xà mâu, một thử đao.


Khí tiết rạng ngời oai lực khét,


Chia ba thiên hạ rạng anh hào.


Quân giặc bị mất chủ tướng hoảng hốt chạy dài. Huyền Đức xua quân đuổi đánh, chúng đầu hàng vô số.


Đoàn quân đắc thắng kéo về thành được Lưu Yên thân hành ra tận bên ngoài tiếp đón và ủy lạo quân sĩ.


Sáng hôm sau, lại có tin giặc "Khăn Vàng" Đến vây phá Thanh Châu, và quan Thái Thú Thanh châu là Cung Cảnh cho người sang cầu cứu. Lưu Yên liền cho mời Huyền Đức đến thương lượng.


Huyền Đức nói:


- Giặc cậy thế đông chia quân khuấy rối, nay U châu đã tạm yên, Bị này xin tình nguyện đem quân để cứu Thanh Châu.


Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh đem năm ngàn quân cùng ba anh em Huyền Đức kéo đi.


Giặc thấy cứu binh tới liền chia làm ba đạo, bao vây rất ngặt. Huyền Đức thấy mình ít quân quá, không thể nào cự nổi liền cho lệnh rút quân ngoài ba mươi dặm hạ trại. Đoạn nói với Quan, Trương:


- Muốn phá giặc phải thi hành kỳ binh mới được.


Rồi chia cho Vân Trường một ngàn quân dọn ra phục bên tả nơi chân núi, Trương Phi cũng lãnh một ngàn quân phục bên hữu nơi chân núi.


Sáng hôm sau, Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân gióng trống tiến đến trới địch. Quân giặc ra nghênh chiến, Huyền Đức giả thua kéo quân chạy về.


Tưởng mình đắc thế, quân giặc ồ ạt đuổi theo. Khi đuổi đến chân núi, bỗng nghe mấy tiếng chiêng báo hiệu, hai toán quân phục của Vân Trường và Trương Phi đồng kéo ra một lượt đánh bộc hậu. Đạo quân của Huyền Đức quay lại tác chiến. Ba mặt đánh dồn, quân giặc đại bại, chết không biết bao nhiêu mà kể. Chúng bỏ kết cờ xí, mạnh ai nấy chạy. Huyền Đức xua quân truy kích, đuổi đến thành Thanh Châu thì quan Thái Thú Cung Cảnh hay được tin thắng trận vội mở cửa thành thúc quân tràn ra tiếp ứng.


Nhờ đó mà Thanh Châu được giải vây, quân giặc tản mác hết. Người sau có thơ khen Huyền Đức:


Mưu hay tỏ rõ sức thần công,


Hai cọp suy ra kém một rồng.


Gặp lúc cô cùng, người mới rõ,


Tam phân thiên hạ, xứng anh hùng


Cung Cảnh đón tiếp ba anh em Huyền Đức và Châu Tĩnh vào thành bày tiệc khao thưởng ba quân. Tiệc xong, Châu Tĩnh muốn trở về U Châu, Huyền Đức nói:


- Gần đây, nghe quan Trung Lang Tướng Lư Thực đánh nhau với Trương Giác, chúa giặc Khăn Vàng tới Quảng Tôn. Bị tôi xưa đã từng theo học Lư tiên sinh, nay muốn đến đó giúp ân sư một phen.


Châu Tĩnh bằng lòng, dẫn quân trở về một mình. Ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân bản bộ thẳng đến Quảng Tôn, vào dinh ra mắt Lư Thực, và nói rõ ý kiến mình tình nguyện phá giặc. Lư Thực mừng lắm, lưu ba anh em Huyền Đức dưới trướng để đợi lệnh.


Bấy giờ, Trương Giác có hơn mười lăm vạn quân, chia ra quấy nhiễu nhiều chỗ. Phần Trương Giác thì giữ năm vạn, đang cầm cự tới Quảng Tôn, chưa phân thắng bại.


Lư Thực bảo Huyền Đức:


- Nay Trương Giác bị ta vây ở đây chưa thể làm gì được, nhưng hai người em của nó là Trương Lương, Trương Bảo đang quấy rối ở Dĩnh Xuyên, đối trận với Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn. Nếu quân giặc ở Dĩnh Xuyên mà thắng thế được thì nơi đây ắt bị nguy hiểm. Vậy ngươi hãy dẫn binh mã bản bộ, và thêm một ngàn quân ta cấp, đến Dĩnh Xuyên dò thám tình hình, sau sẽ hẹn ngày cùng đánh.


Huyền Đức lĩnh mệnh, kéo quân đi suốt ngày đêm mới đến Dĩnh Xuyên.


Bấy giờ Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn đang đánh nhau với quân giặc. Giặc núng thế phải rút lui vào Trường Xã, dựa thế một rừng lau rậm rạp để lập doanh trại.


Hoàng phủ Tung bàn với Châu Tuấn:


- Giặc tuy đông, nhưng khờ khạo. Chúng lập doanh trại trong rừng lau, vậy ta nên dùng hỏa công mà đốt.


Liền đó Hoàng Phủ Tung ra lệnh cho quân sĩ mỗi người đem theo một bó cỏ khô kéo đi mai phục. Đêm ấy gặp gió lớn, quân Hán nhất tề phóng hỏa đốt trại. Giữa lúc đó Hoàng phủ Tung và Châu Tuấn dẫn hai ngàn kỵ binh xông vào chém giết. Trại giặc lửa cháy ngợp trời, quân giặc hoảng hốt không kịp mặt giáp lên yên, bỏ chạy tứ tán.


Quân Hán chém giết cho đến lúc trời mờ sáng thì mới thấy Trương Lương, Trương Bảo thu thập tàn quân cướp đường chạy thoát chết.


Quân giặc chạy chưa đầy ba mươi dặm thì lại gặp một tướng mắt nhỏ, râu dài, mình cao bảy thước, đang cầm đầu một đạo quân cắm toàn cờ đỏ, đổ ra chận đánh. Bị trận phục kích thứ hai này, quân giặc bạt vía kinh hồn, lớp thì chết, lớp ôm đầu chạy trốn không còn một manh giáp.


Vị tướng nhỏ vừa xuất hiện chính là quan Kỵ Đô úy, người Tiêu Quận, nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự là Mạnh Đức.


Trước kia, cha Tào Tháo vốn họ Hạ Hầu tên là Hạ Hầu Tung, nhưng sau làm con nuôi quan Trung Thường Thị Tào Đằng nên Hạ Hầu Tung mới đổi ra là Tào Tung. Tào Tung sanh ra Tào Tháo có đặt cho Tháo tiểu tự là A Man, lại có thêm một tên nữa là Cát Lợi.


Lúc thiếu thời, Tào Tháo thích chơi bời, săn bắn, hát xướng, nhưng bản lãnh lại rất mưu mô xảo quyệt. Người chú của Tào Tháo thấy cháu mình du đãng, ham chơi bỏ học nên có nhiều lần phiền trách nói cho Tào Tung biết.


Mỗi lần như vậy, Tào Tung kêu con vào quở mắng, Tào Tháo đem lòng giận chú, mới nghĩ ra một kế.


Một hôm, thấy chú đến chơi, Tào Tháo giã vờ ngã lăn xuống đất, ngất lịm như trúng gió. Người chú thấy vậy thất kinh vội chạy đi tìm Tào Tung báo lại. Lúc Tào Tung chạy ra xem, thì thấy Tháo vẫn đứng chơi không có việc chi cả. Tào Tung ngạc nhiên hỏi:


- Kìa, sao chú con bảo là con trúng gió?


Tào Tháo thản nhiên thưa:


- Từ trước đến nay con có bệnh tật gì đâu? Có lẽ con đã làm điều gì mất lòng chú, nên chú giận rủa con như vậy.


Tào Tung nghe lời con, nên về sau Tào Tháo có lỗi gì người chú phiền trách, Tào Tung đều bỏ qua, không trách mắng Tháo nữa.


Tháo được thế càng chơi bời phóng đãng hơn. Thời ấy, có người tên là Kiêu Huyền bảo Tháo rằng:


- Thiên hạ loạn to đến nơi rồi, nếu không phải là người có tài tái thế, không ai xoay loạn ra an được. Người tài ấy có lẽ là ông đấy.


Lại có một người nữa ở Nam Dương, tên Hà Ngung, có dịp gặp Tào Tháo về nhà, tỏ ý nói:


- Nhà Hán sắp mất, Tào Tháo sẽ là người an định thiên hạ vậy.


Tào Tháo thấy có nhiều người nói đến mình, nhưng chưa vừa ý. Tháo lại nghe ở vùng miền Nam có Hứa Thiệu nổi danh là xem tướng biết người, liền tìm đến yết kiến và hỏi:


- Ông thấy tôi là người như thế nào?


Hứa Thiệu nhìn Tháo một lúc rồi lặng thinh không đáp. Tào Tháo gặn hỏi đôi ba lần, Hứa Thiệu mới nói:


- Đời trị, ông là bầy tôi giỏi. Thời loạn, ông là kẻ gian hùng.


Nghe nói thế, Tào Tháo mừng vô cùng. Năm hai mươi tuổi, Tào Tháo đã đỗ Hiếu Liêm, làm quan Lang rồi được thăng Đô úy Lộc Dương. Lúc vừa Đến nhậm chức, Tháo đã sai treo mười cây roi ngũ sắc ở bốn cửa thành. Ai phạm đến luật cấm tức thì sai quân nọc cổ ra đánh liền, bất kể kẻ có thế lực, hay quyền quí.


Có một lần người chú ruột của quan Trung Thường Thị Kiển Thạc cầm dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt gặp, lập tức truyền lệnh bắt đem đến trước nha môn mà đánh, chẳng kiêng nể gì hết. Bởi vậy, trong ngoài đều sợ Tháo, không ai dám phạm luật nữa.


Uy danh của Tháo nhờ đó lừng lẫy, nên được thăng làm Quan Lệnh ở Đốn Khâu. Nay giặc Khăn Vàng nổi lên, Tháo lại được thăng chức Trị Đô úy, dẫn năm ngàn quân mã kéo đến Dĩnh Xuyên trợ chiến.


Vừa đến nơi, gặp lúc Trương Lương, Trương Bảo bị trận hỏa công, thua chạy xiểng liểng, Tháo nhân cơ hội chặn đường giết giặc, chém hơn một vạớn đầu giặc, đoạt được người ngựa, khí giới vô số. Trương Lương và Trương Bảo gặp thế cùng, mở đường máu chạy thoát. Tháo liền kéo quân vào thành ra mắt Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn, rồi lại dẫn binh truy kích Trương Lương và Trương Bảo.


Bấy giờ, Huyền Đức cùng Quan, Trương cũng vừa tới Dĩnh Xuyên, nghe xa xa có tiếng hò reo đánh giặc, lại thấy lửa cháy rực trời vội dẫn binh tới thì giặc đã tan rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng Phủ Tung, Châu Tuấn, và nói rõ ý kiến của Lư Thực.


Hoàng Phủ Tung nói:


- Hai thằng giặc Trương Lương, Trương Bảo bị một trận hỏa công, thế cùng lực tận, chắc là chúng chạy sang Quảng Tôn hợp lực với Trương Giác. Các ngươi hãy tức tốc trở về đó mà giúp Lư tướng quân dẹp giặc.


Huyền Đức lĩnh mệnh, lại dẫn quân trở về. Khi đến nửa đường, bỗng thấy một toán quân mã áp giải một chiếc tù xa, người ngồi bên trong lại là Lư Thực.


Thất kinh, Huyền Đức vội tụt khỏi yên ngựa, chạy đến hỏi duyên cớ.


Lư Thực nói:


- Tôi vây Trương Giác sắp phá được binh giặc, thì bỗng triều đình có sai một viên Huỳnh Môn quan là Tả Phong ra mặt trận thám thính tình hình. Tả Phong đòi ăn hối lộ, tôi nói với hắn: "Đến như quân lương hiện còn chưa đủ, lấy đâu ra tiền dư mà đãi sứ nhà vuả". Tả Phong tức giận về triều vu tấu rằng tôi không chịu tiến quân, cứ đắp lũy đào hào cố thủ, khiến lòng quân trễ nãi. Triều đình nổi giận, sai quan Trung Lang Tướng Đổng Trác đến thay tôi cầm quân, và bắt tôi giải về kinh trị tội.


Trương Phi nghe dứt lời, máu giận sục sôi, toan rút gươm chém mấy tên quân hộ tống tù xa để cứu Lư Thực, nhưng Huyền Đức đã kịp ngăn lại và nói:


- Việc của Lư tướng quân ngay gian sẽ có công luận xét đoán, chúng ta không nên bạo sát người của triều đình mà mang tội.


Trương Phi trợn mắt, nhìn chiếc tù xa cho đến khi mất hút. Vân Trường nói:


- Lư Trung Lang bị bắt, người khác cầm quân, chúng ta trông cậy vào ai mà trở lại Quảng Tôn? Chi bằng trở về Trác Quận là hơn.


Huyền Đức nghe lời, cùng với hai em dẫn quân về phía Bắc. Đi chưa được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng quân reo tở mở, ba anh em Huyền Đức liền trèo lên một đỉnh núi cao, xem thấy quân Hán bị thua cuốn cờ chạy trốn, còn đằng sau giặc Khăn Vàng đông đặc, đang đuổi theo rất hăng. Trên cây đại kỳ của giặc có đề bốn chữ: "Thiên Công Tướng Quân".


Huyền Đức đưa tay chỉ bọn giặc, nói với Quan, Trương:

Chương sau

↑↑
Bích Huyết Kiếm - Kim Dung

Bích Huyết Kiếm - Kim Dung

Trích đoạn: Mặt trời sắp lặn, đàn quạ đang bay về tổ. Trên con đường cái quan

11-07-2016 1 chương
Anh hùng Vô lệ - Cổ Long

Anh hùng Vô lệ - Cổ Long

Giới thiệu: Giọng ca của ca nữ, điệu múa của vũ giả, kiếm của kiếm khách, bút

11-07-2016 20 chương
Bách Bộ Ma Ảnh - Vô Danh

Bách Bộ Ma Ảnh - Vô Danh

Nếu mọi nhà ở thành Lạc Dương nao nức chờ đến một ngày mới trong cái Tết ròng

11-07-2016 51 chương
Cu Sứt

Cu Sứt

(khotruyenhay.gq) Bằng này giờ chiều chắc cu Sứt đang bò ra nền nhà bậm môi viết chính

30-06-2016
Cái mụn

Cái mụn

I. Một cái mụn bọc mọc sát khóe miệng nhưng ở vị trí không éo le cho lắm bởi nó

25-06-2016
Cách dạy con kì lạ

Cách dạy con kì lạ

Cậu bé vì quá thích cuốn sách trong hiệu sách nên đã lấy trộm và bị ông chủ bắt

23-06-2016
Đau gì như thể

Đau gì như thể

Có đáng không những tháng năm dài vằng vặc? Những tâm hồn thương tổn? Và kia, một

24-06-2016
Anh Bư

Anh Bư

Còn Nhiên, Nhiên mang trong mình nhiều vết nhơ. Nhiên không có quyền bước vào thế giới

24-06-2016