Do chân trái thọ thương không tiện di chuyển nhiều, Diêm Vương Lệnh chủ chọn đấu pháp dĩ tĩnh chế động. Trường kiếm trong tay lão lượn nhanh như tựa gió, lực đạo mạnh mẽ đến mức kiếm phong rít lên xoèn xoẹt như xé lụa, và thế thức thì cực kỳ quỷ dị, nham hiểm. Thỉnh thoảng mũi nhọn của cán Quỷ kỳ lại bất ngờ thọc vào một yếu huyệt nào đó của đối phương.
bạn đang xem “Bạch hổ tinh quân - Ưu Đàm Hoa” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Tử Khuê cũng có những lợi thế của riêng mình, đó là bộ pháp "Tiên nữ tùy phong" và chiếc bao tay Kim Miệt ở tả thủ. Chàng hoán vị nhanh như chớp, tránh được những đường gươm ác liệt đầy bất trắc. Còn bàn tay trái của chàng thì có thể ngang nhiên chụp lấy lưỡi kiếm hoặc mũi Quỷ kỳ. Cho đến lúc này, Tử Khuê vẫn chưa để lộ tác dụng của Kim Miệt.
Nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn chính là bản lĩnh kiếm thuật của Tử Khuê. Trong nghề đánh gươm, chàng không biết rõ ai và càng hào hứng khi gặp địch thủ cao cường. Tử Khuê phấn khởi mà giải những chiêu kiếm kỳ bí, lợi hại của đất Liêu Đông với niềm say mê vô hạn. Tuy Bá Toàn đang thọ thương, ở vào vị trí bị động, song lại có bảo y hộ thể, cho nên Tử Khuê chịu thiệt thòi khi chỉ có thể tấn công vào mặt,cổ và tứ chi kẻ địch. May mà chàng đã có kinh nghiệm trong dịp đấu với Hắc Diện Thần Ưng, chẳng đển nỗi bối rối. Đồng thời, đấu pháp "Vô chiêu" ngày càng hoàn thiện, tiến dần đến cảnh giới thượng thừa.
Tiếng thép chạm nhau không ngớt, khô khốc ghê tai, song cũng xen lẫn tiếng ngân nga khi "Đảo Nguyên thần kiếm" chém trúng cán Quỷ kỳ là ống rỗng. Cổ vật ấy không bị chặt gãy nhưng trầy trụa, sứt mẻ, mất đi khá nhiều chữ khắc trên thân.
Phùng Bá Toàn tiếc muốn đứt ruột, hiểu rằng "Diêm Vương Quỷ kỳ" đã không còn ma lực khi câu thần chú trên cán cờ bị hủy hoại. Dĩ nhiên là lão vô cùng oán hận Tử Khuê. Song sau đó, Bá Toàn cũng thức ngộ ra rằng "Đảo Nguyên" sắc bén tuyệt luân, trước sau gì cũng chặt gãy kiếm của mình. Hiện giờ lưỡi kiếm đã mẻ hàng trăm chỗ.
Bá Toàn chẳng thể chờ tới lúc kiếm đoạn nhân vong, lập tức thi triển "Đốn Bội tâm pháp" nhân đôi công lực mà xuất chiêu "Hàn phong thấu cốt". Chiêu này hầu như chỉ toàn những thức đâm, vì chém mạnh vào thần kiếm là tự hại mình.
Tuy màn đêm đã buông xuống nhưng đấu trường khá sáng sủa nhờ ánh sáng của mấy trăm ngọn đuốc. Cả quần hùng lẫn quan quân đều muốn thưởng thức trọn vẹn cuộc so gươm hiếm có này. Chính những ánh đuốc vàng võ ấy đã giúp Tử Khuê nhận ra sự biến đổi trên gương mặt đối phương. Chàng đã biết sự lợi hại của tà công "Đốn Bội tâm pháp" nên luôn luôn cảnh giác. Tử Khuê lập tức đảo bộ thần tốc, rời xa đối thủ. Bá Toàn đau chân không thể bám theo kịp, đành bỏ dở thế công đứng thở dốc. Bất cứ điều gì thái quá đều có hại cả. Chân khí của Bá Toàn lúc này đã suy giảm mất một nửa. Lão ta vô cùng tiếc rẻ, cố trấn tĩnh chống đỡ đòn phản kích của kẻ địch. Tử Khuê đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng, quay trở lại với chiêu "Nhật nguyệt tương vong". Chiêu này có lẽ xuất phát từ kiếm pháp Phù Tang, gồm mười tám thế chém bằng cả hai tay nặng tựa ngàn cân.
Khí thế hung hãn phi thường của chiêu kiếm đã làm cho Bá Toàn phải chột da, múa tít gươm và cán Quỷ kỳ để chống đỡ. Lão chỉ mong thủ thân chứ không hy vọng hóa giải nổi đường gươm lạ lùng kia.
Lần này tiếng sắt thép va chạm gay gắt chói tai hơn trước rất nhiều. Và trường kiếm của Bá Toàn đã gãy lìa khi Tử Khuê chém đến thức mười bày. Lão họ Phùng kinh hãi, vươn dài cán Quỷ kỳ, thọc liền ba thế vào ngực đối thủ để cứu vãn tình hình. Đòn này rất hiểm độc, đưa Tử Khuê vào cảnh "đồng quy ư tận" và Bá Toàn tin rằng đối phương không dám đổi mạng vì đang chiếm thế thượng phong.
Trong lúc đôi mắt vẫn tràn đầy vẻ kinh ngạc. Quần hào và bọn quân binh mừng rỡ reo hò như sấm dậy.
° ° °
Hôn lễ của Tử Khuê và bốn ả giai nhân được cử hành vào đầu tháng mười một. Và hai tháng sau, Diêm Vương miếu được khánh thành. Tòa miếu uy nghi tráng lệ này tọa lạc trên nền cũ của Quách gia trang cạnh bờ sông Thạch Lương. Nó lớn và đẹp hơn hẳn miếu thờ Quan Vân Trường ở gần đấy.
Trong chính điện đặt một tượng Phong Đô Đại Đế ngồi trên ngai, lớn cỡ người thật, bằng đồng dát vàng ròng. Tả hữu của ngài có hai vị Phán Quan đứng hầu. Số đạo sĩ phục vụ trong miếu đông độ bốn năm chục người và là đệ tử Thiên Sư giáo.
Tất cả những bức tượng của Diêm Vương miếu đều được phủ kín bằng hàng trăm tấm tranh bích họa khổ lớn, miêu tả cảnh kẻ ác chịu hình phạt trong ngục A Tỳ. Cạnh mỗi bức tranh là một vài câu giáo lý của cả ba đạo Khổng, Phật, Lão khuyên con người sống thiện lương, nhân nghĩa. Lối giáo hóa trực quan sinh động ấy xem ra rất có tác dụng. Khách thập phương nào rời miếu cũng trở thành nhũn nhặn, hiền lành, bởi lòng họ đang tràn ngập cảm giác sợ sệt và hối hận.
Diêm Vương miếu không chỉ bố thí vào những ngày Sóc, Vọng mà còn thực hiện những cuộc phát chẩn vĩ đại, mỗi khi ở đâu đó có thiên tại hoặc đói kém. Nếu địa phương bất hạnh nọ ở không xa thì lương thực, y phục, chăn mền sẽ được tập kết tại Diêm Vương miếu rồi chở đi.
Sau lần gặp gỡ Tần Hạnh Nga ở Thốc Sơn, Tử Khuê mới biết số tài sản của Long Vân Tú Sĩ đã được Bạch Nhi chôn dưới vườn hoa Mã gia trang. Và chàng quyết định đem gần sáu mươi vạn lượng vàng phi nghĩa kia ra làm việc thiện.
Tử Khuê đã trở thành Minh chủ Võ lâm. Thủ hạ dưới trướng chàng lại chính là người của Lôi Đình Thần Cung. Chàng mà không thu nhận thì chắc là họ sẽ phải đi ăn mày.
Phi Đao Bảo An hội vẫn an cư lạc nghiệp ở Trịnh Châu vì Trác Ngạn Chi đã chết. Đám kiếm thủ người Thổ thì về cả cố hương, nơi bộ tộc của họ đang sinh sống.
Đầu Hạ năm sau, quân Mông Cổ ráo riết tấn công vùng quan ải phía Bắc, sắp sửa vượt qua Vạn Lý Trường Thành. Thế nước cực kỳ nguy ngập, vua Hoằng Trị vội giáng chỉ, sai Hoài Âm Vương thống lĩnh đại quân ra biên tái tiếp viện.
Chu Kiềm liền bảo Tử Khuê chiêu tụ anh hùng võ lâm đi giúp nước. Hơn ngàn cao thủ Trung Nguyên đã theo chân Tử Khuê ngược Bắc. Ngoài Dịch Quan San, Lã Bất Thành còn có cả Nhạc Cuồng Loan và Phi Đao hội.
Thiên Kim, Tống Thụy, Tái Vân đều đang bụng mang dạ chửa nên chỉ mình Thanh Chân tháp tùng trượng phu.
° ° °
Người Mông Cổ là những chiến binh bẩm sinh, năm sáu tuồi đã biết cưỡi ngựa, bắn cung, và khi trưởng thành, họ có thể vừa phi ngựa như bay, vừa xạ tiễn cực kỳ chuẩn xác.
Người Hán cũng biết hai kỹ năng chiến đấu ấy song trình độ thua xa những kẻ mà họ gọi là man di mọi rợ. Nực cười ở chỗ trong lịch sử cổ đại Trung Hoa lại có vài tay thần xạ, bản lãnh nghiêng trời lệch đất. Hậu Nghệ thì bắn rơi cả mặt trời, còn Dưỡng Do Cơ bách bộ xuyên dương.
Cũng như Tần Thủy Hoàng, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương hiểu rõ sở đoản của dân tộc Hoa Hạ, nên ra sức củng cố hệ thống Vạn Lý Trường Thành để ngăn bước tiến của đám rợ phương Bắc.
Sau chín mươi năm cai trị Trung Hoa, người Mông Cổ suy yếu đi vì bị Hán hóa, mất hết cái vũ dũng truyền thống, trở thành nhút nhát, ngại khó nhọc, ngại chiến đấu và chỉ ham hưởng lạc. Do đó, người Trung Hoa mới diệt được nhà Nguyên, giành lại giang sơn.
Nhưng khi người Mông Cổ trở lại với nếp sống thảo nguyên kiêu dũng thì chẳng mấy chốc họ sẽ đáng sợ như xưa. Quả đúng thế, khoảng sáu bảy chục năm sau, quân Mông Cổ hùng mạnh hẳn lên, bắt triều Minh phải cống nạp tiền của, bảo vật, rồi cử binh đánh Trung Hoa, hạ được nhiều đồn ải. Thậm chí, người Mông còn bắt sống được cả vua Minh Anh Tôn ở đồn Thế Lộc, tỉnh Sát Cáp Nhĩ. Song nhờ có Vạn Lý Trường Thành mà nhà Minh vẫn giữ được xã tắc thêm hơn hai trăm năm nữa.
Vậy thì tại sao lúc này công trình phòng thủ vĩ đại ấy lại không ngăn được rợ Mông, để chàng trai họ Quách của chúng ta phải tòng quân cứu nước?
Nguyên nhân là vì người Mông Cổ đã mua được Bồ Đào Nha hai chục cỗ súng thần công cực kỳ lợi hại. Đây là loại Phật Lang Cơ pháo, bắn đạn nổ và có bộ phận ngắm chuẩn nên sức công phá rất dữ dội và khá chính xác. Tầm đạn của chúng lại dài gấp đôi hỏa khí của quân Minh.
Thuốc súng và hỏa khí là phát minh của người Trung Hoa, đến nửa đầu thế kỷ mười ba mới truyền bá sang Ấn Độ và Ả Rập. Vào thời nhà Nguyên, qua giao chiến với quân Mông Cổ, người Ả Rập biết tới hỏa khí và học được cách chế tạo, sử dụng. Sau đó, khi người châu Âu đánh nhau với người Ả Rập thì mới tiếp xúc với thuốc súng. Nhưng chính những dân tộc châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp... lại mau chóng trở thành bậc thầy trong nghề hỏa dược, chế tạo ra những khẩu pháo vô cùng đáng sợ.
Trong lúc ấy, đến thời vua Hoằng Trị mà Trung Hoa chỉ có những loại hỏa khí yếu ớt, kém cỏi. Đồng Hỏa pháo của quân Minh bắn đạn đặc như đá, chì, sắt... độ dài đường đạn chỉ khoảng từ mười bộ đến hai trăm bộ.
Kết quả là Phật Lang Cơ pháo của quân Mông Cổ đã bắn sập cửa ải quân Đô Quan, ở phía Bắc huyện Xương Bình, cách Bắc Kinh chỉ chừng hai trăm dặm. Quân Minh bị bắt buộc phải dàn trận bên ngoài quan ải, dưới chân Vạn Lý Trường Thành, trực diện giao chiến với rợ Mông. Đạo quân tiếp viện của Hoài Âm Vương Chu Kiềm đã đến kịp lúc, đẩy quân Mông lùi xa ba dặm.
Những viên đạn pháo Tây Dương đã không còn có thể vươn tới Trường Thành, nên quân Minh cấp tốc sửa sang lại cửa ải. Tất nhiên là công trình này sẽ không được đẹp mắt và mang tính tạm bợ.
Vài ngày sau, quân Mông mở cuộc phản công, đẩy lùi quân triều đình, đưa đạo pháo đến vị trí cũ, và cửa ải lại tan hoang. Nhưng cuối cùng thì nhờ tài thao lược của Chu Kiềm và tinh thần vì nước quên mình của ba quân mà một lần nữa giặc Mông lại phải rút lui.
Trơng suốt mấy tháng trời, hai phe đã giao tranh hàng trăm trận, giằng có nhau trước cửa ải Quan Đo. Số thương vong của quân Mính đã lên đến hàng vạn, song cương thổ vẫn vẹn toàn.
Đáng lẽ ra, theo thông lệ thì mùa đông khắc nghiệt của vùng biên tái sẽ khiến rợ Mông phải lui binh, chờ sang xuân. Bởi cái lạnh cắt da xé thịt và những trận mưa tuyết mịt mù rất bất lợi đối với kỵ binh, cũng như việc tiếp tế lương thảo.
Khổ thay, năm nay thời tiết lại ấm áp lạ thường. Đông đã về lâu mà tuyết chỉ rơi lất phất, không đủ để làm chùn chân đàn chiến mã Mông Cổ. Và càng tệ hại hơn nữa khi bệnh sốt thương hàn lại bất ngờ hoành hành trong doanh trại quân Minh. Nó mau chóng lan thành dịch và giết chết hàng ngàn người, khiến lòng quân sĩ rối loạn, thậm chí có kẻ đã đào ngũ.
Quân Mông Cổ nhân cơ hội này tấn công quyết liệt. Vua Mông là Bột Nhĩ Chích Cân Di Lân Thiếp Mục đích thân xuất trận, ngồi trên chiến xa cổ vũ tinh thần binh lính. Chúng còn tập trung đại pháo bắn như mưa, hỗ trợ cho đội kỵ binh tràn tới tựa sóng dữ, hết đợt này đến đợt khác. Do có sự hiện diện của Thiếp Mục mà bọn lính Mông hăng hái hẳn lên dường như chẳng còn biết sợ chết là gì.
Bọn Tử Khuê luôn có mặt ở tuyến đầu xông pha làn tên mũi giáp, giúp quân nhà đẩy lùi những mũi tấn công sắc bén của rợ Mông.
Trường kích của Lã Bất Thành chính là vũ khí chốn sa trường. Gã mặc giáp nặng, cưỡi ngựa khỏe, lao vào đội hình quân Mông mà tung hoành, oai phong lẫm liệt chẳng kém gì Lã Bố thủơ xưa
Nhạc Cuồng Loan cùng đám trung niên của Lôi Đình Thần Cung, hiện là thủ hạ Tử Khuê, thi triển "Lôi Đình thần chưởng" từ khoảng cách hơn trượng đánh văng bọn kỵ binh Mông khỏi lưng ngựa.
Phi Đao Bảo An hội do Du Vinh và Tuân Khánh chỉ huy cũng lập nhiều chiến tích bằng đường gươm và bằng cả mũi phi đao hiểm ác. Những sát thủ hoàn lương này gần như tin chắc đến chín phần mười rằng Quách Tử Khuê mới là Ngân Diện Hầu, kẻ đã đoạt võ lâm soái kỳ và đưa họ về với chính đạo. Càng có thời gian gần gũi, họ càng nhận ra vẻ quen thuộc của khuôn mặt đầy râu ria, nhất là khi Tử Khuê phóng phi đao quá giỏi. Nhưng họ không sao lý giải được việc gì đã xảy ra nên chẳng dám xảo quyết.
Dịch sốt thương hàn ngày càng lan rộng, làm suy yếu sức lực và cả tinh thần quân triều đình cho nên những cố gắng của bọn Tử Khuê đã không cứu vãn được tình hình. Đến trưa mùng tám tháng giêng, đại quân của Hoài Âm Vương đã bị đẩy lùi dần về phía trường thành. Và nếu quân Minh phải rút vào trong quan ải thì những cỗ đại pháo của quân Mông Cổ sẽ tiến lên, bắn vỡ cửa ải.
Giờ đây, trấn ải không phải là cứ đóng chặt cửa, từ trên bắn xuống hoặc xua đuổi những kẻ vác thang trèo lên, mà có nghĩa là kiểm soát được vòng chiến địa trước cửa ải.
Vạn Lý Trường Thành được xây dựng phần lớn trên những địa hình hiểm trở, chẳng phải đoạn nào quân Mông cũng tiến sát được. Riêng ở những khu vực đất đai bằng phẳng thì mới có cửa ải, nơi thông thương, thông sứ lúc thời bình, nhưng cũng là điểm yếu nhất khi xảy ra chiến tranh.
Trong cục diện hiểm nghèo này, Tử Khuê lo lắng đến cháy cả ruột gan. Chàng nghiêm nghị bảo Thanh Chân: "Chân muội! Muốn chặn bước tiến của rợ Mông thì chỉ có cách là giết vua của chúng. Nàng hãy lui về trung quân, bảo với Hoài Âm Vương rằng khi nào thấy soái kỳ giặc Mông ngã xuống thì đưa ba quân tiến lên. Lúc ấy, quân địch thành rắn không đầu tất phải lui binh".
Thanh Chân nhoẻn miệng cười nhưng lệ tuôn dài trên gương mặt lem luốc vì bụi đất. Nàng run giọng đáp: "Thiếp không có ý định sống mà thiếu tướng công, nên sẽ cùng chàng đi chặt đầu lão vua Mông. Có thiếp bảo vệ phía sau thì tướng công mới mong tiến đến được mục tiêu".
Quả là Thanh Chân nói chẳng sai, Tử Khuê chỉ có thể bao quát được trước mặt cùng tả hữu và phơi lưng trước trận mưa tên. Dẫu chàng có mặc giáp quý đã đoạt được của Diêm Vương Lệnh chủ thì mông và hai đùi sau cũng trống trải. Thanh Chân là người duy nhất có thể bám theo chàng trong tư thế quay mặt về phía sau, với tốc độ tương đương. Nàng hiện đang đội nón đồng và mặc tấm bảo y ấy nên khá an toàn.
Tiếng đại pháo của quân Mông ngày càng gần, Tử Khuê chẳng còn nghĩ đến tình riêng nữa. Chàng cười mát, véo mũi Thanh Chân, âu yếm bảo: "Nếu đôi ta bỏ mạng thì chòm Bạch Hổ sẽ có thêm một ngôi sao nữa".
Thanh Chân hài lòng cười tủm tỉm, đưa tay giúp chàng cởi giáp trụ, Tử Khuê sẽ phải thi triển khinh công, tiến lên với tốc độ nhanh nhất nên không thể mặc bộ giáp nặng nề này được.
Vừa lúc Lã Bất Thành phóng ngựa đến. Gã bị trúng một mũi tên vào đùi nên quay về hậu quân để băng bó.
Thấy Tử Khuê cởi giáp, gã dừng ngựa, buồn rầu hỏi: "Phải chăng công tử muốn giết lão vua Mông?"
Tuy tuổi tác cách biệt song Bất Thành đúng là tri kỷ của Tử Khuê. Chàng mỉm cười gật đầu, nhờ gã báo lại kế hoạch đã định cho Chu Kiềm biết. Họ Lã nhìn chàng bằng ánh mắt đồng cảm pha chút bi thương, và điềm đạm đáp: "Bần đạo đi theo chỉ làm vướng chân công tử, đành ở lại chờ tin thắng lợi. Nếu công tử thất bại thì bần đạo cũng gởi xác chốn này để bầu bạn".
Nói xong những lời chí thiết ấy, Bất Thành quay ngựa đi ngay, dường như để giấu dòng lệ hiếm hoi.
Thanh Chân nhìn theo bóng gã và lẩm bẩm: " Không ngờ tình bằng hữu của bọn nam nhân cũng nặng chằng kém gì nghĩa phu thê".
Tử Khuê khoác đai da cắm đầy phi đao lên người rồi dặn dò Thanh Chân thật kỹ lưỡng. Hai người lao vút đi như gió thoảng, phút chốc đã đến tiền trận, nơi này hai phe đang giao chiến kịch liệt. Tới lúc này Thanh Chân mới quay người lại, đâu lưng cùng trượng phu, không cần nhìn ngó mà vẫn luôn bám sát. Nhưng thực ra hai người nối với nhau bằng một đoạn dây và Tử Khuê đã phải thỉnh thoảng nhắc nhở vì sa trường đầy dẫy xác người ngựa. May mà họ đã thực hiện phương pháp chiến đấu kỳ lạ này vài tháng nên rất thuần thục, không hề va vấp.
Bọn lính Mông lập tức giục ngựa lao đến, buông tên tới tấp để chặn đường đôi nam nữ quái dị kia. Chúng đã từng chứng kiến đồng đội chết bởi những mũi phi đao khủng khiếp của Tử Khuê nên có ý ngán sợ, cố giữ khoàng cách ngoài năm trượng. Nhờ vậy mà vợ chồng Tử Khuê tiến lên rất nhanh. Họ chỉ chăm chú dùng kiếm hoặc bàn tay tả đeo Kim Miệt mà đánh bạt những mũi tên, trong lúc chân cứ lướt mau.
Trong khoảnh khắc hai người đã vào rất sâu, cách ngọn soái kỳ của vua Mông chỉ độ gần trăm trượng. Chung quanh họ giờ đây chỉ toàn là kẻ địch.
Đến lúc này quân Mông mới phát hiện ra ý đồ của vợ chồng Tử Khuê, tập trung kỵ binh và bộ binh mà ngăn chặn. Chúng liều mình lăn xả vào bất kể tử sinh.
Nhưng Tử Khuê đã không để bị vây, chàng đại khai sát giới, múa tít "Đảo Nguyên thần kiếm" mở đường máu. Chàng thi triển bộ pháp "Tiên nữ tùy phong" đến mức chót, thân hình nhấp nhô, chập chờn, lúc tả lúc hữu, lúc bốc lên cao. Tử Khuê thẳng tay chém giết bằng cả bảo kiếm lẫn bàn tay tả. Những tia chân khí từ đầu ngón tay chàng âm thầm bay ra không xuyên thủng da thịt mà chỉ phong tỏa huyệt đạo, song cũng đủ loại kẻ địch khỏi vòng chiến. Và khi cần thiết, một mũi phi đao lại xuất hiện, cắm vào cơ thể của một gã kỵ binh xấu số nào đó. Hàng trăm xác lính Mông đã ngã xuống trên đường tiến của hai người.
Chiến tích ấy có phần đóng góp không nhỏ của Thanh Chân. Đường kiếm của nàng linh hoạt, thần tốc và chuẩn xác phi thường, trong cùng một lúc có thể chặn đứng ba bốn mũi tên. Thi thoảng, Thanh Chân cũng vươn tả thủ chụp lấy vài mũi tên thép hoặc giáng một chưởng Lôi Đình.
Cuối cùng thì đôi uyên ương cảm tử chỉ còn cách mục tiêu vài chục trượng và chạm trán đội kỵ binh sử dụng giáo dài, lính ngự lâm của vua Mông. Chúng không hề hoảng loạn, lập thành hàng rào dày đặc quanh chiến xa của Di Lân Thiếp Mục và vây chặt vợ chồng Tử Khuê.
Từ trên lưng ngựa, chúng vươn giáo đâm xuống như đan lưới chông. Mông Cổ là đất sa mạc, ít khoáng sản và người Mông sống chủ yếu bằng nghề chăn nuôi. Sắt thép hiếm hoi nên cán giáo đều làm bằng gỗ, không thể nào toàn vẹn trước thanh gươm sắc bén như "Đảo Nguyên". Trong chớp mắt, Tử Khuê đã chặt gãy sáu bảy mũi giáo, đánh thốc vào phòng tuyến trước mặt. Kiếm của Thanh Chân chẳng phải là thần binh nên chịu thiệt thòi trước bọn giáo dài. Nàng phải thường xuyên xạ chưởng kình đánh văng những kẻ đến gần.
Y phục vợ chồng Tử Khuê ướt đẫm máu đào, máu của rợ Mông hòa vào máu chính họ. Khi xông qua cả một rừng gươm giáo, tên đạn, họ không tránh khỏi vài vết thương nhẹ. Công lực cũng đã hao tổn rất nhiều, dẫu thành công họ cũng chẳng còn sức để phá vây, quay trở về. Bắt sống vua Mông là phương cách duy nhât bảo toàn mạng sống hai người. Nhưng Tử Khuê không dám nghĩ đến kế này, vì Thiếp Mục sẽ bỏ chạy khi thấy chàng đến quá sát.
Tử Khuê chỉ còn cách chiến xa của vua Mông bảy trượng. Thiếp Mục chẳng chút sợ hãi, đứng thẳng người mà quan chiến, chỉ huy. Lão không thể tỏ ra khiếp nhược, mất khí phách và thể diện bậc quân vương.
Tử Khuê biết đã đến lúc, khẽ quát : "Đi thôi!"
Thanh Chân hiểu ý chàng, thi hành kế hoạch đã bàn. Nàng cắt đứt sợi dây nối hai người, rồi cùng Tử Khuê múa kiếm che thân, luồn lách qua những hàng chân ngựa mau chóng tiến thêm được ba trượng nữa.
Vua Mông chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra thì từ trong hàng ngũ kỵ binh có hai bóng người bốc lên cao, lao chếch về phía lão.
Hàng rào quân ngự lâm phía trước chiến xa vội giương giáo thật cao để hứng hai thích khách. Quả nhiên là kẻ địch không tài nào vượt hết khoảng cách bốn trượng, nửa đường đã rơi xuống. Nhưng trước đó, thanh "Đảo Nguyên thần kiếm" đã rời tay Tử Khuê, hóa thành mũi tên thép, bay đến cắm vào lồng ngực Di Lân Thiếp Mục. Thanh thần kiếm đủ sắc bén để xuyên thủng tấm áo giáp rất dày của vị vua Mông, loại giáp đặc biệt này có thể chống được cả những mũi tên bọc đồng hoặc gươm giáo thông thường.
Họ không có thời gian để biểu lộ sự vui mừng, Thanh Chân phải giáng liền một chưởng đánh ngã gã Mông Cổ phía trước mình, rồi đáp xuống lưng ngựa. Và nàng lại lập tức nhún mạnh song cước, lao vèo lên chiến xa, chém gãy cây soái kỳ cao sừng sững. Thanh Chân rơi trở xuống sàn xe, đạp chân lên ngực Thiếp Mục và rút "Đảo Nguyên thần kiếm" ra, nàng thận trọng thọc thêm một nhát vào cổ họng lão.
Thực ra, Tử Khuê đã luôn theo sát ái thê nhưng ở dưới đất. Chàng đã đoạt lấy một cây giáo làm vũ khí, quét văng bọn lính ngự lâm, xông tới chiến xa gần như cùng một lúc với Thanh Chân. Nhờ vậy, nàng mới rảnh tay hành động mà không bị ai ngăn cả.
Tử Khuê chợt phát hiện cặp ngựa kéo chiến xa được bảo vệ chu đáo bằng một lớp "mã giáp" che kín từ cổ đến mông và rủ xuống quá bụng. Thùng xe rất kiên cố, tuy chỉ cao đến cổ người song cũng là quá tốt. Chàng liền này ra một ý hay, buông giáo đưa tay nhổ đoạn cán còn lại của soái kỳ khỏi thành xe. Tuy đã bị Thanh Chân chặt mất một nửa mà nó vẫn còn dài đến gần trượn. Tử Khuê thuận tay quét một vòng, đánh bạt bọn lính Mông ở quanh xe, miệng thì nói nhanh: "Chân muội mau cầm lấy dây cương!"
Trong bốn người vợ của Tử Khuê, Thanh Chân hiểu chồng hơn cả. Tâm hồn nàng trong sáng như gương, dễ dàng tiếp cận chân lý của sự vật. Nàng biết ngay chàng muốn gì, chụp lấy roi và dây cương. Cặp tuấn mã bị quất rất đau, lồng lên phi nước đại. Bọn lính Mông hung hăng cản đường bị Tử Khuê dùng sào gỗ dài quét rơi khỏi lưng ngựa.
Lúc này quân nhà Minh đã phản công và đồng thanh thét lớn: "Thiếp Mục đã chết!"
Bọn lính Mông ở tiền trận nhìn lại phía sau không còn thấy soái kỳ thì biết rằng đấy là sự thật. Các tướng Mông cũng mất hết tinh thần, ra lệnh rút về, chủ yếu là chặn cho được cỗ chiến xa, cướp lại xác nhà vua và giết thích khách.
Hàng ngàn mũi tên nhằm vào cỗ xe. Tử Khuê đành phải ném bỏ đoạn sào dài, dựng xác vua Mông lên làm mộc che thân. Nhưng đôi ngựa kéo xe đã trúng tên vào đầu, quỵ xuống.
Vợ chồng Tử Khuê bỏ xe, múa kiếm phá vây. Ngoài trường tiễn, họ còn phải đối phó với hàng trăm ngọn giáo phóng tới như mưa. Sức lực mỏi mòn do mệt nhọc và mất máu, đường gươm của đôi uyên ương không còn nhanh nhẹn, chuẩn xác như trước. Thanh Chân bị trường tiễn bắn xuyên đùi phải, chẳng thể chạy được nữa. Nàng chặt gãy đoạn tên ló ra rồi sa lệ nói: "Tướng công đừng lo cho thiếp! Chàng hãy mau thoát thân."
Tử Khuê đau lòng khôn xiết biết đã đến lúc cùng ái thê xuống hoàng tuyền. Nhưng "phục chi tâm linh nhân cấp trí sinh", Tử Khuê chợt nảy ra một ý lạ. Chàng nhanh nhẹn đưa lưng ra và nói mau: "Chúng ta sẽ chạy ngược về hướng Bắc!"
Tâm ý tương phùng, Thanh Chân hiểu ngay đây là lối thoát duy nhất. Nàng mau chóng ôm cổ chàng, chân quặp lấy bụng thật chặt. Nhờ vậy, hai tay Tử Khuê được rảnh rang để chiến đấu. Đầu Thanh Chân đội nón đồng, lưng có bảo y nên không sợ cung tên, và nàng cũng là tấm khiên che chở cho Tử Khuê.
Đúng là hướng Bắc có ít quân Mông hơn ba hướng còn lại. Chúng đâu thể ngờ đến việc đối phương sẽ đào tẩu bằng cách chạy sâu vào đất Mông! Tử Khuê dồn hết nội lực vào đôi chân, lao đi như gió, xông thẳng vào toán kỵ binh Mông Cổ ở mạn Bắc. Chàng không mong giết chúng, chỉ chặt gãy giáo gươm để mở đường. Thanh Chân cũng chưa phải là vô dụng, buông một tay giáng chưởng hỗ trợ trượng phu.
Khi quân địch kịp trấn tĩnh lại trước diễn biến bất ngờ này thì Tử Khuê đã thoát khỏi vòng vây. Bọn lính Mông chỉ còn cách giục ngựa truy đuổi. Chàng ở đây đã lâu, lại thường cùng Hoài Âm Vương xem xét địa đồ khu vực để bài binh bố trận, nên biết rằng hướng Đông Bắc chỉ toàn là cát mịn.
Quả đúng như vậy, khi Tử Khuê đến được vùng cát vàng mênh mông ấy thì bỏ xa bọn truy binh. Cát làm vó ngựa lún sâu, song không thể gây khó khăn cho một kẻ có trình độ khinh công "Đạp tuyết vô ngần" như Tử Khuê, Thanh Chân lại có vóc người thon nhỏ, nặng chưa đến bày mươi cân.
Khi màn đêm buông xuống thì bọn lính Mông hoàn toàn mất dấu hai người. Chúng chán nản bỏ cuộc, quay lại để cùng rút lui với đồng đội. Mười vạn quân Mông đã rút sạch trong đêm ấy, đưa thi hài của vua Mông về thành Ước Dã để làm lễ mai táng.
Quân Minh không đuổi theo, đốt lên hàng vạn ngọn đuốc mà thu nhặt từng tử thi đồng đội, nhưng chủ yếu là tìm cho được xác của vợ chồng Tử Khuê. Công việc cực nhọc ấy tiến hành cho đến sáng mới xong. Và khi không tìm thấy chút dấu vết nào của hai kẻ đã liều thân cứu giang sơn, mọi người đánh kết luận rằng họ đã chết hoặc bị bắt sống. Trong cả hai trường hợp ấy, vợ chồng Tử Khuê đều bị mang về xứ Mông để làm vật tế Di Lân Thiếp Mục. Không một ai tin rằng họ có thể thoát khỏi vòng vây của mấy vạn quân Mông. Việc họ hành thích thành công cũng đáng gọi là điều kỳ diệu rồi.
Ngoài những chốt cảnh giới từ xa, toàn bộ quân Minh đều rút vào trong quan ải để nghỉ ngơi. Hoài Âm Vương thì triệu tập đám đầu lĩnh của lục cương hào kiệt võ lâm đến đại bản doanh. Những người ấy đã biết tin dữ, mặt mày hai mắt đỏ ngầu. Chu Kiềm hắng giọng mở lời tán dương công lao hạn mã của vợ chồng Tử Khuê và hứa sẽ gửi tấu chương về triều, xin thiên tử truy tặng tước Hầu. Gã cũng hết lời khen ngợi quần hào, cảm ơn những đóng góp của họ và cho phép xuất ngũ về quê nhà.
Dịch Quan San đứng lên, lạnh lùng nói: "Khải tấu Vương gia! Bọn thảo dân sẽ vượt sa mạc, vào tận thành Ước Dã để đòi lại thì hài của phu thê Quách Minh chủ. Mong Vương gia khai ân cấp cho trăm con ngựa tốt và lương thực."
Chu Kiềm cũng rất yêu mến Tử Khuê nên không giận trước thái độ ngang tàng của Quan San. Gã thở dài phán: "Các khanh đã quyết chết vì đạo nghĩa thì bổn Vương chẳng dám ngăn cản. Ta chúc các khanh 'mã đáo thành công'."
Dịch Quan San vái tạ, cùng mọi người rời đại bản doanh. Nhạc Cuồng Loan tiến lên sánh bước họ Dịch và nghiêm nghị hỏi: "Vì sao Dịch đại ca không cho tiểu đẹ biết gì về kế hoạch ấy. Và dám hỏi trong số trăm người đi Ước Dã có tính đến Loan này không?"
Quan San thản nhiên lắc đầu: "Ngươi không thể đi được. Họ Nhạc vẫn chưa có người nối dõi."
Cuồng Loan liền kéo Quan San đứng lại, nhìn vào mặt gã và chậm rãi nói: "Nhạc mỗ thà tuyệt tự chứ không chịu làm người bất nghĩa. Hơn nữa, khi Tử Khuê đã chết thì cuộc đời này còn gì để Cuồng Loan lưu luyến nữa."
Chương trước