- Tài sản Tiêu gia chẳng ít, xin tướng công chớ vì vạn lượng vàng mà để cho con thơ phải mất cha.
bạn đang xem “Bạch hổ tinh quân - Ưu Đàm Hoa” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Tử Khuê hoan hỉ phi thường nắm chặt vai nàng, tươi cười bảo:
- Tạ ơn trời đất. Nhưng nàng có chắc là mình cấn thai chưa?
Tiểu Tinh thẹn thùng cuối đầu thỏ thẻ:
- Nô tài trễ kinh đã bốn hôm, tự chẩn mạch thì phát hiện mình có hiện tượng thai nghén.
Biết nàng giỏi y thuật, chẳng thể lầm lẫn được, Tử Khuê cao hứng cuối xuống hôn lên trán Tiểu Tinh. Nhưng chàng vẫn phải lên đường tìm linh quả về cứu mạng cha già, nên chỉ còn cách khai thực thân phận với Tiểu Tinh. Có như thế nàng mới cam tâm ở lại Quách gia trang chờ đợi. Giong ruổi trên lưng ngựa suốt mấy ngàn dặm đường là việc mà một thai phụ phải tuỵêt đối cấm kỵ.
Tử Khuê cuối xuống bồng nàng đặt lên giường. Chàng cũng lên theo nằm bên cạnh và bắt đầu kể rõ ngọn ngành.
Nửa canh giờ sau, Tiểu Tinh mới chịu tin rằng Tiêu Mẫn Hiên là Quách Tử Khuê, và nàng đã khóc muồi, dặn dò chàng bảo trọng lên đường tìm thuốc cho Quách lão gia. Ngược lại, Tử Khuê cũng phân phó những việc mà Tiểu Tinh phả làm nếu chàng không quay về Hứa Xương.
Trong bữa uống trà đàm đạo sau bữa cơm tối, Tử Khuê nghiêm nghị nói với mẹ mình:
- Bẩm phu nhân! Vãn bối nghe nói "Hắc ngọc tiên đào" của Lôi Đình Thần Cung có thể trị được chứng xơ gan. Dám hỏi phu nhân tin việc ấy không?
Băng Tâm Ma Nữ thờ ơ gật đầu:
- Trong y kinh của gia sư thúc cũng nhắc đến giả thuyết ấy. Nhưng người lại chú thích rằng việc này không đáng tin cậy vì chưa có chứng minh cụ thể.
Tử Khuê bình thản nói tiếp:
- Thực ra, hơn sáu mươi năm trước, có một người đã được "Hắc Ngọc tiên đào" cứu mạng dù bị xơ gan đã ba năm. Người ấy là Nhật Nguyệt Lão Nhân, sư phụ của Thần Thuỷ Độc Vương Cao Mộng Đắc.
Trình Kiếm Các không dằn nổi tính hiếu kỳ, hỏi lại ngay:
- Nhưng tại sao Tiêu Hầu lại biết một việc quá xa xưa như thế? Hay đấy cũng chỉ là lời đồn?
Tử Khuê nhìn lão cười đáp:
- Trình lão gia cứ yên tâm! Vãn bối tỏ tường điều ấy vì nàng tiểu thiếp họ Tống này chính là đồ đệ của Cao Độc Vương.
Cả nhà bàng hoàng, nhìn Tiểu Tinh với ánh mắt nghi hoặc. Người duy nhất tin lời Ngân Diện Hầu là Dịch Quan San. Gã vỗ đùi nói:
- Té ra là thế! Hèn gì ta giết được một cao thủ lão thành như Vân Nam lão Đại, khiến Dịch mỗ không sao hiểu nỗi.
Bằng có hùng hồn ấy đã khiến những người khác tin tưởng hơn trước. Băng Tâm Ma Nữ cũng tràn trề hy vọng, niểm nở hỏi lại Tiểu Tinh:
- Này Tống điệt nữ! Mong ngươi lên tiếng xác nhận lại cho lão thân yên tâm.
Biết bà là mẹ chồng mình, Tiểu Tinh đâm ra sợ hãi, líu ríu thưa:
- Bẩm phu nhân! Tiểu nữ xin cam đoan đấy là sự thật.
Bà mừng rỡ, quay sang hỏi Trác Thanh Chân:
- Chân nhi! Lôi Đình Thần Cung ở địa phương nào? Con hãy chỉ vẽ rõ ràng để ta cử người đến đấy hỏi mua linh quả.
Trác Thanh Chân cùng Tống Thụy đều đã khá hơn trước, mặt hoa hồng hào, đầy đặn. Vì vết sẹo trên góc trán Thanh Chân đã gần như bíến mất, chỉ còn là một dấu chấm lõm mờ nhạt. Nhưng khổ thay, ả họ Trác vẫn chưa tỉnh táo hoàn toàn, ánh mắt và cử động chỉ lộ rõ vẻ ngốc nghếch khờ dại.
Nghe mẹ chồng hỏi vậy, Thanh Chân ngơ ngẩn, tròn mắt đáp:
- Bẩm mẫu thân, Lôi Đình Thần Cung là cái chi chi và nó ở đâu thì hài nhi làm sao mà biết.
Cả nhà thất vọng, thở dài chán nản. Thiết Đảm Hồng Nhan thân thiết với Thanh Chân hơn cả, liền dịu dàng nhắc nhở:
- Đấy chính là nơi mà Tam thư đã đến ăn trộm quả đào màu đen và cứu mạng cái gã Bàng Nguyên Hối.
Thanh Chân nhăn mặt nhíu maỳ, vò đầu bức tóc ra chiều suy nghĩ, miệng thì lẩm bẩm "Đào đen...đào đen...."
Lát sau, nàng ngượng ngùng nói ấp úng:
- Bẩm mẫu thân! Hài nhi chẳng thể hình dung ra đường đi nước bước, chỉ loáng thoáng nhớ được rằng cái cây đào trái màu đen ấy ở trong một khu rừng, dưới chân một ngọn núi đá cao.
Rừng núi thỉ có ở khắp cùng Thiểm Bắc. Thanh Chân nói thế cũng bằng thừa. Băng Tâm Ma Nữ chán chường nhìn đứa con dâu dở người với vẻ thương hại pha chút bực bội.
Nhưng Tử Khuê lại quan tâm đến yếu tố khác. Chàng dịu giọng hỏi Thanh Chân.
- Chẳng hay tiểu thư có còn nhớ cách xuất nhập trong khu rừng ấy hay không? Xin tiểu thư biểu diễn cho tại hạ xem thử.
Thanh Chân rất thích chiếc mặt nạ bạc xinh xắn kia, nên có cảm tình với Ngân Diện Hầu. Nàng hớn hở đứng lên ngay và yểu điệu bước đi. Lạ thay, Thanh Chân tiến tới với cùng một trật tự gồm các bước: tiến tam, hữu tứ, tiến nhị, tả thất. Và khi quay lại thì trật tự ấy đảo ngược.
Một kẻ biết bơi thì dẫu có mất trí cũng vẫn biết bơi khi rơi xuống nước. Những động tác của tứ chi đã trở thành bản năng rất khó bị lãng quên. Thanh Chân còn nhớ được võ công thì cũng không quên được bộ pháp ra vào trận kỳ môn chung quanh Lôi Đình Thần Cung.
Tử Khuê hài lòng cảm tạ Thanh Chân rồi ung dung bảo Băng Tâm Ma Nữ:
- Thực ra dẫu cho phu nhân có đến được Lôi Đình Thần cung thì cũng chẵng mua nổi "Hắc Ngọc tiên đào". Trác Đế Quân là bậc đại phú, tuổi đã cao nên cần sự trường thọ hơn hoàng kim. Hơn nữa, lệnh lang và các thiếu phu nhân đây đều là kẻ đối đầu Nhạc Cuồng Loan, học trò của Trác Ngạn Chi. Vậy liệu lão ta có chịu bán linh quả hay không? Và nếu bán thì với giá nào?
Băng Tâm Ma Nữ cười mát đáp:
- Hầu gia luận việc rất hữu lý. Nhưng phải chăng các hạ đã có hướng sách nào khác?
Tử Khuê mỉm cười gật gù:
- Phu nhân quả là sáng suốt! Vãn bối có quan hệ quyến thuộc với Trác Đế Quân, sẽ đem ba quả đào tiên về đây với giá vạn lượng vàng.
Dịch Quan San mưu trí tuyệt luân, nhìn ra ngay ẩn tình. Nến cất tiếng nói to:
- Nếu Hầu gia tự tin có thể xin được linh quả sao lại còn phải hỏi han cách xuất nhập trận kỳ môn?
Tử Khuê thản nhiên đáp:
- Tại hạ chẳng dại gì xin xỏ khi biết chắc là không được. Tiên mỗ sẽ trổ tài đạo chích rồi đào tẩu.
Cả nhà sửng sốt nhìn Ngân Diện Hầu không chớp mắt. Dịch Tái Vân buột miệng phê phán:
- Tiên phủ giàu sang nhất Trịnh Châu, sao Hầu gia lại liều thân vì chút tiền tài như thế? Hành vi của các hạ cổ quái khhôn lường, ta chằng thể nào hiểu nổi.
Tử Khuê cười khà khà:
- Năng nhặt chặt bị. Bổn nhân ăn hại của song thân đã nhiều, nay cố kiếm chút đỉnh mà cưới vợ, không để họ tốn kém thêm.
Biết mẹ mình đang cân nhắc, lo cho sự an toàn của số vàng năm ngàn lượng ứng trước, Tử Khuê tủm tỉm trấn an bà:
- Lần này, vãn bối sẽ không ứng trước lộ phí, mà sẽ nhận trọn vạn lượng vàng khi mang đủ ba trái tiên đào về đây. Và trong trường hợp Quách trang chủ dùng xong mà không có triệu chứng thuyên giảm bệnh tình, vãn bối cũng tự nguyện hoàn lại nguyên số.
Băng Tâm Ma Nữ được "nắm dao đằng chuôi" thì vô cùng yên dạ. Nhưng bà cũng thầm tự nhủ:
- Lạ thực! Sao gã lại đoán ra ta đang nghi ngại chuyện ấy nhỉ!
Thấy mẫu thân đã đồng ý, Tử Khuê liền nói sang chuyện khác:
- Bẩm phu nhân! Tỳ thiếp của vãn bối đã cấn thai nên sẽ ở lại đây. Mong phu nhân thương tình chiếu cố cho!
Từ lâu rồi, Quách phu nhân luôn khát khao có được đứa cháu nội đễ ẳm bồng, nhất là khi Tử Khuê vận số long đong, luôn vào sinh ra tử. Bà vẫn thường chê Tái Vân kém phúc đức nên mới không thụ thai, dù đã có nhiều thời gian gần gũi chồng. Nay nghe nói Tiểu Tinh có hỉ tín, bất giác bà mừng lây, vui vẻ nói:
- Cung hỉ! Cung hỉ! Lão thân xin chúc mừng Hầu gia! Các hạ cứ yên tâm thượng lộ, lão thân hứa sẽ chăm sóc Tiểu Tinh chu đáo.
Và bà buột miệng than:
- Ôi! Lão thân mong mỏi đã lâu mà vẫn chưa có đứa cháu nào.
Thiên Kim và Tái Vân chột dạ, thầm ganh tị với ả họ Tống kia. Nhưng nàng ta đang vô cùng hổ thẹn, trông rất tội nghiệp, nên hai nữ nhân trút giận lên đầu Ngân Diện Hầu. Chính cái thói trăng hoa, lấy cả tỳ nữ làm tỳ thiếp của Mẫn Hiên đã khiến họ bị mẹ chồng mắng mỏ.
Tái Vân thọ ơn cứu mạng nên không dám dè bỉu Ngân Diện Hầu, nhưng Nữ Hầu tước thì chẳng phải ngán ai. Thiên Kim hậm hực lên tiếng:
- Này Tiêu Hầu! Túc hạ chưa hề có chính thất, trong khi Tống cô nương lại đang mang cốt nhục của họ Tiêu. Đúng lý ra, nàng ta phải được xem là thiếp chứ sao lại chỉ là tỷ thiếp? Tuy Tiểu Tinh xuất thân dân dã nhưng không thể bị đối xử bất công như vậy. Bổn nhân rất thất vọng về nhân phẩm của Ngân Diện Hầu.
Cả nhả chết điếng, không ngờ Thiên Kim lại nặng lời đến thế. Ngân Diện Hầu dẫu sao cũng là ân nhân, từng cứu Tống Thụy, Tái Vân và Thanh Chân. Vả lại, nếu gã ta nỗi giận, không đi Lôi Đình Thần Cung tìm linh quả nữa thì nguy to.
Quách phu nhân bực bội nạt nàng dâu trưởng:
- Kim nhi! Sao con lại dám xúc phạm đến thượng khách của lão thân? Gia sự của Tiêu Hầu là việc riêng tư, hà cớ gì ngươi phải lắm lời?
Thiên Kim biết mẹ chồng đã nổi lôi đình, nàng sợ đến xanh mặt, định đứng lên ngỏ lời tạ lỗi Tiêu Mẫn Hiên. Nào ngờ, Ngân Diện Hầu cười ha hả, vui vẻ nói:
- Hoàng Phong Hầu dạy chí phải. Tiêu mỗ xin tuân lệnh!
Và gã quay sang bảo Tiểu Tinh:
- Nàng mau vái tạ tấm lòng đại lượng của Trình Hầu tước.
Thiếp có nghĩa là vợ lẽ, còn tỳ thiếp là nàng hầu. Trước đây, Tử Khuê vì sợ Thiên Kim nên chỉ dám nhận Tiểu Tinh làm tỳ thiếp. Nay Nữ Hầu tước vô tình xe dây tự trói, Tử Khuê liền chụp ngay lấy cơ hội.
Tiểu Tinh cũng biết vậy nên mau mắn đứng lên, nghiêng mình thi lễ:
- Tiểu muội xin cảm tạ Đại thư!
Kẻ tinh ý nhất lại là cậu bé Tử Chiêm, nó bật cười hăng hắc và phát biểu:
- Kỳ quái thực! Sao trông giống như cảnh Trình đại tẩu nạp thiếp cho Tam ca thế nhỉ?
Tử Khuê thầm khen bào đệ của mình thông tuệ. Và chàng vội cáo từ ngay vì hổ thẹn khi lừa dối Thiên Kim!
Đồng Quan là một địa phương rất nổi tiếng, từ hồi Chiến Quốc cho đến tận bây giờ. Nguyên nhân vì Đồng Quan có cửa ái Hàm Cốc, cửa ải trọng yếu nhất của nước Tần, thông với với Trung Nguyên. Ải đầu thứ hai là Vũ Quan, không lẫy lừng bằng Hàm Cốc.
Đến tận thời nhà Minh, việc thông thương giữa Thiểm Tây và các tỉnh phía Đông nó cũng vẫn phải qua hai ải này. Do địa hình vùng ranh giới Thiểm Tây - Hà Nam quá hiểm trở, nên người ta chẳng thể mở thêm lối đi nào khác nữa.
Đường trục Đông - Tây nối liền Trường An, Lạc Dương, Trịnh Châu, Khai Phong, Tế Châu và biển Đông. Đồng Quan nằm trên đường ấy, thuộc Thiểm Tây và giáp ranh Hà Nam. Nhờ vậy mà Đồng Quan rất sầm uất, mỗi ngày đón đưa hàng trăm đoàn xe hàng hóa lại qua, lữ khách thì hàng vạn.
Ở chốn đông người, các ngành thương mại, dịch vụ đều phát triển, cho nên trong thành Đồng Quan có rất nhiều hiệu buôn, trà lâu, tửu quán, khách sạn, đỗ trường, kỹ viện...
Tất nhiên, nơi kinh doanh thuận lợi nhất chính là những cơ ngơi nằm trên đường trục chính Đông - Tây qua thành. Đường Bắc - Nam trong thành khó làm ăn hơn vì hướng bắc Đồng Quan là sông Hoàng Hà, còn phía nam là núi rừng hoang vu, thô lậu.
Khi vào thành Đồng Quan bằng cửa hướng Đông, lữ khách sẽ bắt gặp một cơ ngơi ba tầng cực kỳ đồ sộ và khang trang. Nó được mện danh là Đồng Quan đệ nhất tửu lâu.
Lão Tử là người đầu tiên chán ngán thói ba hoa, khoác lác của dân tộc Hoa Hạ, nên đã dạy họ đức khiêm tốn, giấu mình. Ngay chính Khổng Phu Tử còn bị Lão Tử chê là kẻ khoe khoang, kiêu căng. Khổng Tử thì biết mình sai, nhưng trong suốt mấy ngàn năm sau đó, người Hoa Hạ vẫn cứ thích xưng mình là Đệ nhất.
Nhưng Đồng Quan Đệ nhất tửu lâu thì danh phù kỳ thực, nổi tiếng đã gần trăm năm, nhờ thức ăn và rượu ngon số một chốn này.
Bằng chứng là sáng nay, mười chín tháng ba, mới qua đầu giờ Tị mà trên lầu một của tửu lâu đã có đến tám bàn khách khứa. Lúc này còn quá sớm để ăn nhậu, trừ những kẻ vô công rỗi nghề, những ma men hoặc những người chán đời.
Quả đúng là nơi đây đang hiện diện một kẻ chán đời. Người vui vẻ chẳng bao giờ ngồi nhậu một mình và cứ nốc tỳ tỳ hết chén này đến chén khác, mặt thì nặng nề như đeo đá.
Kẻ đáng thương ấy là một vị đạo sĩ áo trắng, tuổi độ quá bốn mươi, dung mạo hơi thô nhưng cũng đầy nét cương nghị và oai vệ. Cây trường kích mạ bạc sáng loáng, dựng ở cột gỗ gần bàn, chính là chiêu bài của Lã Bất Thành, đại để tử Bắc Thiên Tôn.
Chương trước | Chương sau