Chàng lặng thinh đứng nhìn xuyên qua bóng tối rồi thơ thẩn bước dần ra ngoài hang.
bạn đang xem “Âm Dương Giới - Khuyết Danh” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Theo dự đoán của chàng thì trên dãy Kỳ Liên sơn, trong suốt phạm vi một trăm dặm, các cao thủ thuộc năm đại môn phái đã bủa một màn lưới thật chặt chẽ, kiểm soát những kẻ ra vào.
Nhưng thật tế đã khác hẳn điều ấy.
Chàng đi thẳng một mạch hơn mười lăm dặm đường vẫn không thấy một bóng người xuất hiện.
Với khả năng thị thính của chàng hiện nay, trong vòng ba dặm, bất kỳ một tiếng động nhỏ nào cũng phát giác ra được. Như thế nếu có người ẩn núp, dù cẩn thận dè dặt tới đâu cũng không giấu nổi.
Thế mà trên suốt quảng đường dài chưa thấy xảy ra điều gì khác lạ.
Mặc dù không am tường lối đi, nhưng càng lâu bầu trời càng trở nên quang đãng, mảnh trăng hạ tuần đã lên, chiếu sáng vằng vặt, nên việc tìm phương định hướng cũng không khó gì.
Chàng cứ nhắm qua địa thế, rồi đi mãi về phương Bắc.
Rạng đông ngày sau, Văn Thiếu Côn đã ra khỏi dãy núi Kỳ Liên sơn, đến địa phận Cam Nương, một vùng nổi tiếng nhất của miền Tây bắc.
Lúc bấy giờ đã sang giờ mẹo, đường cái đã tấp nập, người ngựa xe cộ đi lại nhộn nhàng. Phong cảnh ồn ào phức tạp khiến chàng thấy khó chịu và thầm tính :
- Công việc đầu tiên của mình là đến Vân Mộng sơn, tìm hang Vọng Ngã gặp được Độc Nhãn Thần Cái để tìm thân thế của mình. Sau đó sẽ tính qua những việc khác.
Thế rồi chàng quả quyết đi thẳng về hướng mặt trời mọc.
Chưa được mấy ngày đã vượt qua biên giới đi dần vào nội địa.
Suốt quãng đường này cứ đêm nghỉ ngày đi, chả cần hỏi thăm đường sá nữa.
Từ thuở bé, sinh trưởng tại Lăng Vân sơn trang mười mấy năm trời chưa hề đi ra ngoài. Ngày nay lần đầu tiên xông pha trên giang hồ, như con chim con bỡ ngỡ trước bần trời mênh mông vô tận nên không khỏi có những cảm giác kỳ thú mới lạ.
Trên hành trình, thỉnh thoảng ghé lại một quán trà lâu để ăn uống hoặc tạm trú ngụ, Văn Thiếu Côn nghe thiên hạ đồn đãi về hai câu chuyện quan trọng vừa xảy ra cách đây không lâu.
Câu chuyện thứ nhứt là trên một trăm cao thủ võ lâm kéo nhau vào Vô Nhân cốc đã bị lửa thiêu chết sạch. Về vấn đề này thì một số đông cho rằng do địa hình địa thế khác biệt của Vô Nhân cốc, một nơi hoang vu từ trước không có người, quần hùng đã làm động đến ngọn lửa địa cực đến nỗi phát sinh ra điều thảm biến như vậy.
Đó là tấn bi kịch vô tiền khoán hậu đã xảy ra trong võ lâm.
Câu chuyện thứ hai là một biến cố bi thảm vừa xảy ra nơi phái Hoa Sơn.
Trước đây mấy hôm, có bốn người đã già, mặc thanh y, tự xưng là Truy Hồn sứ giả từ phương xa đến, yêu cầu gặp vị Chưởng môn của phái Hoa Sơn.
Vì bọn đệ tử Hoa Sơn không chịu cho tiếp kiến, dùng võ lực cản trở, khiến Truy Hồn sứ giả đã nổi giận xông bừa lên núi. Kết quả chẳng những vị Chưởng môn bị giết chết mà cả mười bảy tay cao thủ thượng thặng trong phái này cũng đều táng mạng hết.
Cửu Hoa lão nhân Hoắc Bá Khơi, vị Chưởng môn phái Hoa Sơn bị giết xong, bốn Truy Hồn sứ giả cũng đã rời núi Hoa Sơn, bỏ đi biệt tích.
Phái Hoa Sơn vừa trải qua một cơn đại biến xem như bị ngã gục không còn gượng lại nổi. Chưởng môn và mười bảy cao thủ bị giết, số đệ tử còn lại cũng như bầy rắn mất đầu, như chim trúng tên, không biết làm gì hơn là lo liệu công cuộc an táng ma chay. Ngoài ra chẳng còn một ai có đủ tư cách và gan dạ để đứng ra truy tầm hung thủ nữa.
Hai vấn đề cùng xảy ra một lúc, là hai cái tang chung cho toàn giới võ lâm.
Đâu đâu người ta cũng xôn xao bàn tán một thời rất sôi nổi. Bốn đại phái võ lâm còn lại là Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga My và Vô Vi cũng ngày đêm nơm nớp lo sợ, chẳng biết ngày nào đến số phận mình.
Cứ như thế là sau khi vụ Vô Nhân cốc vừa tạm lắng dịu, vụ Hoa Sơn và bốn lão Truy Hồn sứ giả lại bùng lên sôi nổi. Đến nay chưa một manh mối nào được phanh phui ra ánh sáng. Chưa ai có thể biết nguyên nhân huyền bí.
Tất cả các đại môn phái tức khắc bủa người đi khắp nơi dò la điều tra tin tức.
Riêng bốn phái võ Nga My, Thiếu Lâm, Võ Đang và Vô Vi cùng gửi thông điệp cho các hạ tầng cơ cấu của mình, hạ lệnh nghiêm mật theo dõi thám thính tình hình các Truy Hồn sứ giả.
Cái chết của Văn Tử Ngọc, kế đến cái chết của Hoa Sơn Chưởng môn càng khiến cho Văn Thiếu Côn đi thêm vào rối rắm.
Cùng khi ấy, chàng bỗng nhớ đến hai nàng Tề Mãn Kiều và Chu Diệp Thanh, trên núi Tề Thiên Phong cũng như nàng Lệ Minh Nguyệt bị cầm chân trong Nghinh Xuân động, bây giờ chưa biết đi đến đâu.
Trăm mối tơ vô, càng suy nghĩ càng thắc mắc, gỡ mãi không ra.
Sau hết Văn Thiếu Côn sực nhớ đến lời căn dặn của ân sư Nhất Liêu :
- Bất luận trong đám giang hồ võ lâm, cho dù sóng gió đến đâu, dù nhân tâm thế sự có hiểm nguy ra sao, chỉ cần nhớ kỹ và thi hành đúng bốn câu phương châm của ân sư, luôn luôn đề cao cảnh giác làm tròn sứ mệnh của một trang hiệp sĩ là được rồi.
Từ khi rời hang Vô Nhân cốc đến nay tính đã bảy ngày. Dọc đường ngày đi đêm nghỉ, chỉ còn cách Vân Mộng sơn non ba trăm dặm. Nghĩa là chỉ hai ngày nữa là đến nơi.
Mãi đi tới, vừa bước vừa suy nghĩ, Văn Thiếu Côn đã lạc mất đường. Đến khi chợt biết ra thì đã lạc vào một vùng núi non trùng điệp.
Leo lên một cây cao, phóng tầm mắt nhìn quanh bốn phía, chàng chẳng phân biệt được đâu là đâu và chỗ mình đang ở thuộc địa hạt nào. Trong khi ấy đêm đã tối, tứ bề màn đêm bao phủ, kế đến một trận mưa giông nổi lên, khiến quần áo chàng ướt đẫm, chẳng một nơi nào tạm trú được.
Liên tiếp mấy ngày đi đường vất vả, chẳng đường nghỉ ngơi, ăn uống lại thất thường cho nên mặc dù công lực chàng thâm hậu đến đu cũng phải đuối sức.
Giữa lúc đêm tối, vừa đói vừa mệt nhọc, vừa dầm mưa ướt lạnh, Văn Thiếu Côn thấy trong người rất khó chịu.
Từng cơn gió Tây thổi hắt hạt mưa vào mặt như xát muối, đường núi đất dẻo trơn trợt khó đi vô cùng.
Trong lúc đang cố tâm tìm một nơi tạm trú, Văn Thiếu Côn lắng nghe văng vẳng từ xa đưa lại tiếng mỏ cốc cốc, đều đều.
Chàng vội dừng chân ngơ ngác nhìn quanh.
Tiếng mỏ đó cách xa trên hai dặm, rõ ràng của một nhà sư nào đó đang lúc tụng kinh.
Không chút ngần ngại, Văn Thiếu Côn tung mình phi thân lao vút trong mưa, bay về hướng đó, bụng nghĩ thầm :
- "Nếu có người tụng kinh ắt phải có chùa miếu. Ta có thể xin tạm trú một đêm để dưỡng sức, ngày mai lại lên đường".
Hai dặm đường trôi qua, chớp mắt từ trong khu rừng thông trước mặt có ánh đèn le lói chiếu ra.
Chàng đinh ninh nếu không phải ngôi chùa thì cũng là một tòa cổ miếu nào đó. Nhưng khi đến gần thì mới biết là không đúng.
Nơi này chỉ là một căn nhà nhỏ, lợp lá, phên tre, nằm ẩn dưới một hang trông cao ngất nghêu.
Sau đó có nhiều căn nhà lá khác nối nhau kéo dài, lợp rất ngay ngắn, cửa phên đóng kín mít.
Trên cửa có treo một tấm biển đan bằng tre, có ba chữ lớn cũng dùng tre xếp lại. Nhìn kỹ ba chữ, chàng đọc :
"Vọng Tình lư"
Văn Thiếu Côn nhất thời không khỏi ngạc nhiên vì danh từ kỳ lạ này.
Chàng ngơ ngẩn nhìn kỹ xung quanh. Cứ như cảnh tượng người nếp nhà lá núp dưới bóng thông giữa khu rừng rậm, nơi đây quả là chỗ ẩn cư lý tưởng nhất.
Ánh đèn vẫn le lói xuyên qua cái khe chỗ của những tấm phên tre. Bên trong tiếng mõ vẫn điểm đều đều không ngớt.
Văn Thiếu Côn thầm đoán có lẽ người ẩn cư nơi đây là một kẻ ẩn sĩ muốn xa lánh cõi đời náo nhiệt hoặc một vị tu sĩ đang sống với tiếng kệ câu kinh.
Chàng muốn gõ cửa xin vào nhưng lại nghĩ bụng :
- "Nếu mình xông vào đường đột quá sẽ làm lỡ mất buổi kinh chiều của người ta, như thế quả là một hành vi thiếu lễ độ".
Vì vậy nên chàng lẳng lặng đứng yên trước cửa hoặc thỉnh thoảng bước nhẹ nhẹ trên thềm chờ đợi.
Bên trong tiếng mõ "coong coong" vẫn dội đều. Quả nhiên kẻ này đang dồn hết tâm trí vào quyền kinh.
Thình lình tiếng mõ im, tiếng tụng kinh dứt hẳn.
Một lời nói rất nghiêm trang bỗng từ trong vọng ra rõ ràng :
- Buổi kinh chiều của lão phu đã dứt, người bạn nào đang chờ bên ngoài, xin cứ tự tiện bước vào trong nói chuyện.
Văn Thiếu Côn giật mình hoảng sợ, nghĩ thầm :
- "Ủa lạ nhỉ! Mình ngại phá rầy buổi kinh chiều của người nên đã cố gắng giữ yên lặng, đi lại hết sức dè dặt nhẹ nhàng, thế mà người ấy vẫn phát giác được, nhất là giữa lúc đang bận gõ mõ tụng kinh. Huống chi bên ngoài trời đang mưa gió, thông reo vù vù như sóng dậy, mà người ấy vẫn nghe được rõ ràng. Có lẽ vị này phải là một tay võ công siêu việt, bản lãnh đã vào hàng thượng đẳng rồi".
Mải ngẫm nghĩ chàng lúng túng chưa biết trả lời ra sao?
Trong phòng lại có tiếng cười khà khà vọng ra :
- Ô hay, tại sao lặng thinh như thế? Có lẽ bạn muốn chờ lão phu ra rước vào sao?
Câu nói vừa dứt bỗng nghe tiếng áo quần phần phật, cánh cửa phên rít kẹt kẹt, một cụ già tác độ năm mươi đã đứng ngay tại ngưỡng cửa.
Văn Thiếu Côn vội vàng chấp tay vái dài một cái và cung kính nói :
- Thưa lão trượng, vãn sinh đi lầm đường bị lạc lối vào đây, đã làm rầy rà đến nếp sống thanh lịch của lão trượng, thật là đáng tội.
Ông ta liếc ngang một cái, đôi mắt chớp sáng ngời, ngắm nhìn chàng một lát rồi hỏi vấn tắt :
- Sao không nói đại ý muốn gì?
Văn Thiếu Côn đáp :
- Xin phép lão trượng cho nghỉ đỡ một đêm, sáng ngày mai sẽ đi ngay.
Ông già do dự một chập, lẩm nhẩm gật đầu nói :
- Hoàn cảnh đặc biệt, lão phu đồng ý cho bạn nghỉ nhờ một đêm, nhưng...
Ngừng một lát, lão nói tiếp :
- Nhưng... nếu bất luận đêm hôm nay có xảy ra điều gì bạn cũng không được hỏi han, tò mò hay nhúng tay vào đấy nhé! Nếu không bằng lòng, xin đi khỏi ngay nơi này lập tức.
Văn Thiếu Côn ngạc nhiên quá nhưng cũng không quan tâm suy nghĩ, cứ đáp :
- Vãn sinh xin tuân lời lão trượng, chỉ lo ngủ, chẳng quan tâm đến một điều gì khác nữa.
Ngoài miệng tuy đáp như thế để cho qua chuyện nhưng trong lòng chàng luôn luôn suy nghĩ thắc mắc :
- Một người tu sĩ ẩn cư trong núi, đã xa lánh sự đời rồi mà trong đêm khuya lại có điều gì xảy ra nữa đến nỗi phải căn dặn như vậy nhỉ? Lạ thật!
Thật là những câu nói của ông ta có vẻ gàn gàn mà cũng có vẻ thật tình.
Tuy nhiên vì tánh hiếu kỳ nổi lên chàng quả quyết :
- Ta cần dò xét sự thật ra sao, xem trong căn nhà này có điều gì bí mật.
Nếu lão này là người ẩn dật, tu hành thì ngày mai ta lên đường như đã dự định.
Nếu trái lại y có những hành vi bất chính, lẽ cố nhiên ta phải diệt trừ đúng như lời ân sư đã dặn.
Ông lão thấy chàng đã nhận lời tươi cười nói :
- Như vậy thì bạn hãy theo lão phu vào bên trong.
Nói xong ông rảo bước đi ngay vô nhà sau.
Bước theo vào nhà, thấy trong phòng bài trí tuy sơ sài nhưng tao nhã và sạch sẽ. Chính giữa nhà có đặt một cái bàn khá rộng. Trên bàn có một bệ cao thờ mấy vị tôn thần, nhưng không biết là vị thần nào.
Chương trước | Chương sau