XtGem Forum catalog
Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ


Tác giả:
Đăng ngày: 11-07-2016
Số chương: 51
5 sao 5 / 5 ( 58 đánh giá )

Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 45

↓↓

Nguyên khi Thái-sư Trần Thủ Độ ép đem vương phi của An-sinh vương Trần Liễu là công chúa Thuận Thiên nhập cung làm hoàng hậu. Vương cùng gia thuộc khởi binh. Bấy giờ Khê-khẩu công Trần Hiến cùng phu nhân chỉ huy thân binh phủ An-sinh tấn công vào phủ của Thái-sư Trần Thủ Độ. Sau khi An-sinh vương Liễu đầu hàng, Trần Thủ Độ đem cả hai vợ chồng Khê-khẩu công ra chém đầu. An-sinh vương Liễu đem hai con của công là Trần Tử Đức và Trần Ý Ninh ra Ngũ-yên nuôi. Trần Tử Đức hiện được phong tước Phú-lương hầu, lĩnh chức Trung-nghĩa thượng tướng quân, tổng chỉ huy các đạo quân phòng thủ Bắc biên của Ngũ-yên.

bạn đang xem “Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


Vô Huyền chỉ Thiệu Hoa:


- Còn đây là Bùi Thiệu Hoa, vợ của Trần Tử-Đức.


Chiêu Minh vương kinh hãi, vương tự nghĩ: Thì ra Vô Huyền cưu mang tất cả những kẻ thù của triều đình. Nguy thực.


Vô-Huyền hỏi :


- Ta nghe nói, quân Mông-cổ chiếm xong Đại-lý, chúng chuẩn bị vào đánh Đại-Việt. Nhưng Thủ-Độ không đủ đức hô hào võ lâm giúp triều đình, nên y sai hài nhi tới đây cầu cứu ta phải không ?


- Dạ.


- Hài nhi về bảo Thủ-Độ rằng muốn chống giặc thì phải xử dụng hết sức mạnh của chủ đạo tộc Việt. Hãy dùng chủ đạo mà tập họp kẻ sĩ, võ lâm, binh tướng. Võ lâm thì ta có thể giúp được. Còn nhân sĩ, binh tướng thì phi Hưng-Đạo vương, không ai đủ đức làm cả.


- Dạ ! Hưng-Ninh vương, Hưng-Đạo vương cùng Ngũ-yên đã kéo cao cờ nghĩa, hô hào bỏ tỵ hiềm cá nhân với cá nhân, gia đình với gia đình, môn phái với môn phái, để cùng chống giặc.


- Đã có Hưng-Đạo vương cầm quân, thì ta yên tâm. Có một mối nguy vô tận, ta liệu Thủ-Độ chưa biết.


- Thưa là?!?!


- Kể từ khi Thành-cát Tư-hãn mang quân vào Trung-nguyên tới giờ, trải 46 năm. Trong 46 năm đó, Lôi-kỵ của Mông-cổ đánh đâu thắng đó. Thế nhưng có một điều làm cho binh tướng Mông-cổ kinh hồn vỡ mật là các tướng của họ cấp Thiên-phu trưởng, Vạn-phu trưởng chết nhiều quá. Đa số họ chết vì các võ lâm cao thủ. Khi đang xung trận họ bị trúng tên do các cao thủ Trung-quốc bắn, chứ không do binh tướng bình thường. Hoặc họ bị các cao thủ dùng võ công giết.


- Tâu...tướng quân Trần Tử-An cũng báo cho triều đình biết như vậy.


- Chính vì lẽ đó, bọn vua, quan Mông-cổ ra sức chiêu mộ, hậu đãi bọn võ lâm Trung-nguyên. Hồi đầu chỉ có các phái hắc đạo như Trường-bạch, Liêu-Đông vì chống Kim mà theo Mông-cổ. Tiếp theo các đại bang dần dần trở thành móng vuốt của họ. Còn 6 đại môn phái, thì phái Thiếu-lâm giữ thái độ trung dung không theo họ, cũng không chống họ. Phái Hoa-sơn phân làm hai, Bắc-phái theo họ từ lâu. Nam phái thì vẫn trung thành với Tống. Những phái Võ-đang, Nga-mi, Không-động, Côn-luân hoàn toàn bị mua chuộc. Khu-mật viện chắc đã biết biết rõ tình hình này rồi.


- Tâu chưa.


- Chết thực. Lại còn nguồn tin đáng sợ hơn nữa: Hốt Tất Liệt biết rằng kỳ này đánh Tống, đánh Đại-Việt sẽ phải đối trận với các tướng là những đại cao thủ. Nên y chiêu mộ những cao thủ bậc nhất, gửi theo quân để giết tướng địch. Ta nghe trong đạo quân của Ngột-lương Hợp-thai có rất nhiều cao thủ thuộc phái Không-động, Côn-luân, Võ-đang. Triều đình phải chuẩn bị mà đối phó.


Thế rồi Vô-Huyền với Chiêu-Minh vương luận bàn về tình thế Đại-Việt, Mông-cổ, Tống, Chiêm. Trời sáng lúc nào không hay.


Bè đã cập bến.


Chiêu-Minh vương rập đầu trước Vô-Huyền bốn lần, rồi lên bờ. Mười bồi sứ đang dàn hàng ra đón vương. Vương không nói, không rằng, cùng sứ đoàn lên đường về Thăng-long. Nhân viên sứ đoàn tuyệt không dám lên tiếng hỏi nửa câu.


Bí mật bao trùm.


Ghi chú của thuật giả:


Thần-quang tự, nơi diễn ra cuộc tiếp sứ của Vô-Huyền bồ tát, cho đến nay vẫn còn, tháng 4 năm 1962 chùa được xếp hạng DTLSVH. Chùa được bảo quản rất cẩn thận, và trở thành một thắng cảnh du lịch danh tiếng. Hằng năm số du khách vãng cảnh đông đúc vô cùng. Nếu họ là Phật-tử thì họ viếng thăm để được hành hương một đất linh. Du khách viếng thăm để được chiêm ngưỡng một ngôi chùa cổ nghìn năm, một kiến trúc xa xưa.


Thần-quang tự còn gọi là chùa Keo Giao-thủy hay chùa Keo dưới, để phân biệt với chùa Keo Hành-thiện hay chùa Keo trên. Chùa tọa lạc tại xã Vũ-nghĩa, huyện Vũ-thư tỉnh Thái-bình. Chùa do Minh-Không bồ tát xây dựng vào niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ ba (DL.1061) đời vua Lý Thánh-tông. Lúc đầu, chùa mang tên là Nghiêm-quang. Niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ năm (DL.1167), nhân dịp vua Lý Thánh-tông hành hương, ngài ban tiền đại trùng tu, rồi đổi tên là Thần-quang.


Độc giả muốn biết hành trạng của Minh-Không bồ tát, xin đọc Nam-quốc sơn hà, 5 quyển của Yên-tử cư-sĩ do Đại-Nam Hoa-kỳ xuất bản. Về Thần-quang tự, thuật kỹ từ trang 138, quyển 5.


Niên hiệu Nguyên-phong thứ 6 đời vua Thái-tông nhà Trần. (DL.1256, Bính Thìn).


Trước tết Nguyên-đán, Hưng-Đạo vương từ Ngũ-yên, cùng vương phi là công chúa Thiên-Thành về Thănh-long chúc tết hoàng đế. Không biết nhà vua với vương đã bàn những gì, mà kéo dài suốt từ giờ Mão tới hết giờ Ngọ mới xong (8 tiếng ngày nay). Sau đó, giữa ngày tết Nguyên-đán, khắp các phủ, các trấn, các xã, các thôn đều nhận được hịch của triều đình loan báo rằng quân Mông-cổ sắp vào Đại-Việt cướp phá. Triều đình kêu gọi toàn dân phải cùng đứng lên chống giặc. Trong hịch chỉ rõ cho các làng, xã phải khẩn cấp thi hành ba điều. Một là tổ chức hội họp, loan báo cho từng người dân biết sự tàn bạo của Mông-cổ, mưu đồ của Mông-cổ, dùng lãnh thổ Đại-Việt đánh vào sau lưng Tống. Bắt Đại-Việt cung cấp lương thảo, dùng quân sĩ Việt làm phu khuân vác, làm vật hứng cung tên đánh thành Tống. Hai là, triều đình sẽ cử thiên tử binh; các bang, các phái sẽ cử đệ tử về từng xã, huấn luyện võ thuật nam nữ tráng niên, cùng phương cách giữ làng, chống giặc. Ba là, phải tích trữ, dấu lương thảo, gia súc, không để cho giặc cướp đi.


Cả nước rung chuyển lên, vì mỗi buổi chiều, thay vì rong chơi không biết làm gì, thanh niên nam nữ tập trung lại luyện võ, bắn cung, xung phong, hãm trận. Trong những quán trà, trong những ngôi đình làng, các thầy đồ kể chuyện về sự tàn ác của Mông-cổ, về chiến thuật của họ, rồi giảng giải những gì người dân phải làm.


Thế nhưng về phía triều đình, việc chỉ huy vẫn chưa thống nhất. Trong các buổi thiết triều, trên cao nhất từ Nguyên-Phong hoàng đế, đến thái-tử, các thân vương, đại thần, đều công nhận rằng Hưng-Đạo vương là người có tài dùng binh nhất Đại-Việt, quân lực của Ngũ-yên hiện là tiềm năng chiến đấu hữu hiệu nhất . Thế nhưng triều đình vẫn không thể trao chức Phụ-quốc thái-úy cho vương. Vì chức này do em của nhà vua là Khâm-Thiên đại vương Nhật-Hiệu giữ từ ba năm nay. Chính Thái-sư Thủ-Độ đề nghị nhà vua phong cho Khâm-Thiên vương chức này. Lại một trở ngại nữa, kế hoạch trao cho các môn phái việc luyện võ toàn dân, việc sách động toàn dân luyện tập binh bị, tổ chức củng cố phòng thủ thôn xã, do Hưng-Đạo vương đưa ra, rồi Thái-sư Thủ-Độ điều động, chứ Khâm-Thiên vương gần như chỉ ngồi làm công việc thư lại ở điện Uy-viễn. Vì vậy binh lực Đại-Việt vẫn có hai chế độ, hai hệ thống chỉ huy khác nhau: Hệ thống triều đình, hệ thống Ngũ-yên. Tuy việc chỉ huy chưa thống nhất, nhưng việc huấn luyện binh tướng, một viêc khó khăn nhất thì các vương hầu đều bó tay. Hưng-Đạo vương cùng các tướng soái Ngũ-yên nhận lĩnh cái khó khăn này.


Suốt năm ấy, trong khi Đại-Việt rung chuyển lên vì cuộc chuẩn bị chống Mông-cổ, thì quân Mông-cổ vẫn chưa bình định xong các bộ tộc của Đại-lý.


Một thảm cảnh xẩy ra, bắt nguồn từ việc Thái-sư Thủ-Độ nghi ngờ Ngũ-yên: Mùa Thu tháng 7, Vũ-Thành vương bất mãn, đem tông tộc hơn nghìn người, bỏ Đại-Việt sang Tống. Nhưng khi vương chạy qua biên giới thì An-phủ sứ Tư-minh là Hoàng Bình bắt trao trả cho triều đình Đại-Việt. Bị giải về Thăng-long thẩm cung, nhà vua hỏi:


- Người là con của Hiển-Từ thái hậu sinh ra, tước phong tới vương, được trong đãi, thế sao lại bỏ nươc trốn đi?


Vương tâu:


- Bỏ nước, bỏ mồ mả tổ tiên, bỏ quê hương, bỏ người thân, lưu lạc xứ người, hỏi mấy ai muốn? Từ khi phụ vương hoăng, anh em thần gạt bỏ hết những thù hận từ tiên vương, để trung thành, bảo vệ vương triều. Nhưng anh em thần vẫn bị nghi ngờ. Từ xưa đến giờ, phàm vua nghi ngờ bầy tôi thì có hai việc xẩy ra. Một là bầy tôi sẽ bị giết, hoặc bầy tôi làm loạn để tự tồn. Thần không đủ can đảm phản bệ hạ, nên phải trốn đi.


- Ta nghi ngờ người ? Người bịa đặt ra như vậy sao ?


- Bệ hạ thử đặt mình vào hoàn cảnh anh em thần thì thấy ngay. Buổi thiết đại triều trước đây đã nghị trao cho Hưng-Đạo vương làm Tiết-chế quân mã. Thế nhưng từ hồi ấy đến giờ chiếu chỉ vẫn chưa ban ra. Bệ hạ phong cho Hưng-Đạo vương lĩnh Tiết-chế. Cái danh Tiết-chế chỉ để trang trí cho đẹp. Quyền của Tiết-chế ra sao ? Bốn hạm đội, hiệu Kỵ-binh, hiệu Ngưu-binh, ba hiệu bộ binh của Ngũ-yên sẵn sàng cho triều đình xử dụng. Còn quân của triều đình thì vẫn có Phụ-quốc thái-úy chỉ huy. Trên Phụ-quốc thái úy còn Thái-sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sứ. Thì ra Hưng-Đạo vương lĩnh chức Tiết-chế để đem lực lượng Ngũ-yên trao cho triều đình.


Vương khẳng khái nói lớn:


- Triều Lý đã có Kiến-hải vương Lý Dương Côn chạy sang Cao-ly; Lạng-châu công Lý Long-Phi chạy sang Mông-cổ; Phò-mã Thủ-Huy, công chúa Đoan-Nghi chạy sang Mông-cổ; gần đây Kiến-bình vương Lý Long-Tường cũng ra đi. Tất cả những vị đó đều bị oan khuất, các người không muốn chống lại triều đình, muốn ẩn thân cho toàn tính mạng, mà thấy không yên...Nên phải xuất ngoại. Nay thêm thần, thì cũng là sự thường.


Ghi chú của thuật giả:


Vũ-thành vương Doãn là con của An-sinh vương Trần Liễu với công chúa Thuận-Thiên. Sau khi công chúa Thuận-Thiên bị Trần Thủ-Độ cưỡng đem vào cung, lập làm Hoàng-hậu. Bấy giờ vương còn thơ, mẹ con phải xa cách nhau, gây cho vương niềm uất hận không nguôi. Khi bà băng, được phong là Hiển-từ hoàng hậu.


Ý Thái-sư Thủ-Độ muốn đem toàn gia vương ra xử trảm, để làm gương, nhưng Nguyên-Phong hoàng đế ân xá, truyền vương trở lại Ngũ-yên, vẫn cho ăn lộc trang ấp, nhưng không trao cho quyền hành gì.


Niên hiệu Nguyên-Phong thứ 7 đời vua Thái-tông nhà Trần.(DL.1257, Đinh Tỵ), mùa Xuân tháng giêng.


Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân chỉ huy hiệu Ngưu-binh trấn thủ biên giới, thuộc Ngũ-yên là Phạm Cụ-Chích sai ngựa lưu tinh báo về Yên-bang rằng: An-phủ sứ Tư-minh của Tống là Hoàng Bính, dẫn tông tộc hơn 3 nghìn người sang kiều ngụ.


Nhận được tin, Hưng-Đạo vương sai Phú-lương hầu Trần Tử-Đức cùng vợ là Bùi Thiệu Hoa, em gái là Trần Ý Ninh lên an ủi, chu cấp lương thảo cho gia thuộc, rồi đưa Hoàng Bính về Thăng-long để triều đình định liệu. Hoàng Bính dẫn người con gái tuổi 16, tên Hoàng Chu-Linh nhan sắc diễm lệ, lầu thông Thi, Thư. Các học thuật như Tử-vi, Độn-số, Dịch-lý, Địa-lý, không môn nào mà không thông. Đây là một sự cố cực kỳ quan trọng, nên Nguyên-Phong hoàng đế truyền thiết đại triều, để nghị về việc này. Các quan hiện diện đầy đủ, duy Thái-sư Thủ-Độ khó ở, nên vắng mặt.


Cha con Hoàng Bính hành đại lễ, tung hô vạn tuế. Lễ quan chỉ từng đại thần giới thiệu với Hoàng Bính. Triều đình Nguyên-Phong hầu hết đều là những người có tài kinh thiên động địa, chính khí dọc ngang trời đất, nếu không là những bậc chính nhân quân tử thì cũng là những người đạo cao đức trọng. Thế mà khi thấy Chu-Linh, tất cả đều nghĩ thầm: Sao lại có người đẹp đến như thế kia?


Nhà vua truyền lấy ghế cho cha con Hoàng Bính ngồi. Ngài phán:


- Trẫm nghe nói: Khanh từng đỗ đệ nhị giáp Tiến-sĩ, đã lĩnh chức Thị-độc học sĩ triều Tống. Gần đây được ưu ái ban cho lĩnh An-phủ sứ châu Tư-minh. Thực là hồng ân bao la. Thế sao khanh lại chạy sang xứ thấp nhiệt của quả nhân, xin kiều ngụ?


- Muôn tâu bệ hạ.


Hoàng Bính tâu: Khắp gầm trời này, đâu cũng là thiên hạ cả. Đức Khổng-tử không hề phân biệt cương giới. Thế thì kẻ vô tài, bất đức như hạ thần đâu dám nghĩ đến Đại-Việt, Đại-Tống khác nhau? Bảo-Hựu hoàng đế Đại-Tống trọng đãi thần, thần thực thâm cảm, nguyện kết cỏ ngậm vành. Nhưng, thiên mệnh đã an bài, toàn thể Trung-quốc phải chịu mấy trăm năm dưới ách ác quỷ; khí số nhà Đại-Tống đã hết rồi. Vì vậy, thần mới quan sát thiên văn, tìm nơi mà ác quỷ không thể tác họa, lại có thánh hiền giáng sinh mà ẩn thân.


Ông chỉ lên trời:


- Trời Nam là nơi con cháu Viêm-đế trị vì, linh khí ngùn ngụt, thánh nhân giáng trần, cầm gươm đuổi ác quỷ, đó là nơi có thể an thân. Vì vậy thần mới đem tông tộc sang xin bệ hạ cho núp bóng hoàng long.


Lời nói của Hoàng Bính làm triều đình cảm thấy nhẹ nhõm, gạt hết mọi lo sợ cái ách Mông-cổ đang đè lên đầu.


Vũ-Uy vương hỏi:


- Thưa tiên sinh, xin tiên sinh giảng cho vãn bối điều mà tiên sinh nói rằng linh khí tụ tại Đại-Việt?


- Khải vương gia... Chuyện như thế này...


"... Niên hiệu Bảo-Hựu thứ năm nhà Tống, nhằm niên hiệu Nguyên-Phong thứ 7 đời vua Thái-tông nhà Trần (DL. 1257, Đinh Tỵ). Nhân dịp tết Nguyên-đán, An-phủ sứ châu Tư-minh về triều cùng chư đại thần chúc tết Bảo-Hựu hoàng đế. Sau khi chúc tết xong, ông đến tòa Khâm-thiên giám thăm các bạn, rồi cùng nhau luận bàn về số Tử-vi của các thân vương, đại thần, hậu cung. Ông nghiệm thấy rằng những người chết trươc năm Kỷ Mão (DL.1279), thì không có gì đặc biệt. Còn những người sống tới năm ấy, thì hầu như đều chết cùng một ngày, chết rất thảm thiết. Ông đoán rằng: Có lẽ ngày ấy là ngày Tống bị diệt vong.


Đêm đó ông lên đài Thiên-văn quan sát Thiên-hà thì thấy sát khí bao trùm các vùng thuộc Tống. Trong khi đó quỷ tinh chiếu xuống các vùng Mông-cổ cai trị , mạnh bất khả đương.


Lo buồn, trở về Tư-minh, hằng đêm ông lên núi cao xem Thiên-văn, vô tình nhìn về phương Nam, thấy sao Tử-vi ứng vào vua thì sáng chói, còn quần tinh chiếu xuống rực rỡ, thịnh thời đến hơn trăm năm. Ông kết luận: Như vậy Mông-cổ sẽ diệt Tống, nhưng khi đánh xuống Đại-Việt thì bị thất bại. Ông bàn với phu nhân, rồi họp tông tộc giảng cho họ cùng hiểu. Tất cả đều tin tưởng vào ông, thu vén của cải, vượt biên sang Đại-Việt xin kiều ngụ.


Thế là ông dẫn tông tộc sang Đại-Việt".


Hầu hết các quan đều không muốn thu dụng Hoàng Bính, vì sợ mất lòng Tống. Chiêu-Minh vương Quang-Khải tâu:


- Tâu phụ hoàng. Hôm trước Vũ Thành vương cùng gia thuộc bỏ Đại-Việt sang Tống. Chính Hoàng tiên sinh bắt trả cho Đại-Việt. Bây giờ Hoàng tiên sinh bỏ chạy sang ta, mà ta cho lưu ngụ, thì Tống sẽ coi ta ra gì nữa?


Chu-Linh thấy Chiêu-Minh vương, bất giác nàng bật lên một tiếng suýt dài. Thái-tử Hoảng tinh ý, hỏi bằng tiếng Hoa:


- Hoàng cô nương ! Không biết xá đệ có lời gì không vừa ý cô nương chăng, mà cô nương suýt ?


Chu-Linh cung tay đáp bằng tiếng Việt:


- Khải Thái-tử ! Tiểu nữ vừa từ Trung-nguyên sang Đại-Việt, đã được diện kiến long nhan, cùng chư vị anh hùng, e rằng cung kính còn sợ chưa đủ lễ, có đâu dám vô phép? Có điều tiểu nữ thấy tướng của Chiêu-Minh vương tốt quá, nhịn không được, mà thốt ra tiếng suýt. Rất mong lượng cả bao dung.


Chiêu-Minh vương hỏi :


- À thì ra thế ! Cô nương thấy tướng của cô gia tốt. Vậy chẳng hay sự nghiệp sau này sẽ ra sao ?


- Thưa vương gia. Nếu như vương gia cho tiểu nữ biết giờ, ngày, tháng, năm sinh, tiểu nữ hợp Tử-vi với tướng mệnh thì có thể trả lời hết các câu hỏi của vương gia.


Thái-tử Hoảng đáp thay Chiêu-Minh vương :


- Chú em cô gia sinh ngày 9 tháng 11 năm Tân Sửu, giờ Dậu.


Chu-Linh bấm tay rồi nói :


- Ái chà! Không ngờ hôm nay tiểu nữ lại được xem số cho một đấng anh hùng Nam-phương. Đa số anh hùng sinh ra không gặp thời. Còn vương gia sinh ra đúng thời.


- Xin cô nương nói rõ hơn.


- Trước hết mệnh của vương gia đóng tại Mão, Cự, Cơ thủ mệnh, có Hóa-lộc phù trì đó là cái cách của bậc tể thần, cách của một văn thần. Thế nhưng cung quan tại Mùi, ngộ Hình. Hình là thanh kiếm, trong khi mệnh ngộ Tang-môn. Thế thì vương gia còn có tài đại tướng bách chiến, bách thắng. Thêm Lộc-tồn cư thiên di, là cái cách song lộc, văn chương quán thế.


Thái-tử Hoảng hỏi:


- Liệu sự nghiêp chú em của tôi có bằng Khai-Quốc vương triều Lý không?


- Khải Thái-tử, sự nghiệp Chiêu-Minh vương với Khai-Quốc vương khác nhau xa lắm! Xa lắm lắm.


- Nghĩa là không bằng???


- Tiểu nữ không nói thế. Tiểu nữ xin so sánh. Hai vị đều là con một minh quân sáng nghiệp. Hai vị cùng có tài nghiêng trời lệch đất, muốn đem tài đó ra phù tá anh mình, hầu làm cho dân giầu nước mạnh. Khai-Quốc vương thâm nhiễm Phật-pháp. Còn Chiêu-Minh vương lại uyên thâm đạo Thánh. Khai-Quốc vương bị anh là vua Lý Thái-tông ghen tài, nghi ngờ, chèn ép. Ngược lại Chiêu-Minh vương với Thái-tử thì anh em thân với nhau như cá với nước, mỗi lời, mỗi ý vương bàn với Thái-tử, đều đươc Thái-tử nghe theo. Khai-Quốc vương có tài đại tướng, nhưng không có văn tài, lại không thi thố được cái tài đại tướng. Ngược lại, Chiêu-Minh vương khi ngồi tại triều, phò tá thiên tử, lúc nhàn rỗi, lại bầu rượu túi thơ, ngao du sơn thủy; cũng có lúc ngồi trên mình ngựa, xông pha ngoài trận, thỏa chí nam nhi. Hỡi ơi! Cuộc đời vương gia thực là cuộc đời xẻ núi, lấp sông. Sau này, vạn vạn năm, danh của vương gia ghi trong thanh sử. Nam nhi đại trượng phu được như vương gia, trong thế gian có mấy người.


Thái-tử chỉ Vũ-Uy vương :


- Chú em của cô gia đây sinh năm Nhâm Dần, tháng 9, ngày 28, giờ Thân. Xin cô nương tính xem, sự nghiệp của chú sẽ ra sao?


Chu-Linh bấm tay, tính toán một lúc rồi nhìn Vũ-Uy vương, nở một nụ cười :


- Mừng cho Thái-tử. Xưa Hậu-chúa Lưu Bị có người em kết nghĩa là Trương Phi phò tá mà thành đại nghiệp. Ngày nay Thái-tử có em ruột nhất tâm, nhất trí khuông phò. Thực là trời đem vương ban cho Thái-tử !


- Nghĩa là ?


- Số của vương gia hơi giống số của Trương Phi thời Tam-quốc. Vương gia tuổi Nhâm Dần. Mệnh của vương lập tại Dần. Thất-sát thủ mệnh. Cái cách Thất-sát tại Dần, Tử-vi kinh gọi là Thất-sát triều đẩu. Nhất sinh tước lộc vinh xương. Đúng ra Thất-sát thủ mệnh thì da vương gia đen như nhọ chảo. Nhưng vì vương gia sinh giờ Thân, có Văn-xương thủ mệnh, thành ra da trắng trẻo. Thất-sát là thượng tướng tinh đẩu, nên dù Văn-xương thủ mệnh, vương gia vẫn thích luyện võ hơn là học văn, cho nên võ công vương gia cao thâm không biết đâu mà lường. Cung Thiên-di có Tử, Phủ trấn ngự, mà tuổi Nhâm, nên được cả Hóa-lộc, Hóa-quyền phù trợ...Thì hỡi ơi ! Số vương gia là số anh hùng, cả đời ngồi trên mình ngựa, ba thước gươm xông pha ngoài chiến trường, mà lưu danh muôn thủa.


Chu-Linh tiếp tục xem số cho gần hết triều thần. Phú-lương hầu Trần Tử-Đức nhìn Chu-Linh mỉm cười :


- Tiểu cô nương ! Hôm trước tôi được lệnh Hưng-Đạo vương cùng vợ đưa Hoàng tiên sinh với cô nương về Thăng-long. Trải bốn ngày đường gió bụi, mà chúng tôi nào có biết tiểu cô nương lại thông thiên mệnh như vậy. Bây giờ tôi xin cô nương xem dùm số Tử-vi của chúng tôi ra sao ?


- Xin quân hầu cho biết rõ...


- Tôi tuổi Mậu Tý, sinh tháng 7, giờ Ngọ, ngày 24. Vợ tôi thì không biết ngày giờ sinh.


Chu-Linh bấm ngón tay, tính toán một lúc, liếc nhìn Tử-Đức, rồi lại trầm ngâm tính toán. Nhà vua sốt ruột hỏi :


- Hầu hiện thống lĩnh ba hiệu bộ binh của Ngũ-yên, trấn ngự biên cương. Vận số của hầu có quan hệ tới Xã-tắc. Nếu như số của hầu có gì bất tường, xin cô nương chẳng nên dấu diếm.

Chương trước | Chương sau

↑↑
Âm công - Cổ Long

Âm công - Cổ Long

Lời tựa: Bạch Bất Phục, người con hiếu thảo, lấy việc "đổi của chôn người"

12-07-2016 1 chương
Lợn đi chợ

Lợn đi chợ

Ông chủ lùa một con Lợn béo, một con Dê và một con Cừu lên xe ngựa mang ra chợ.

24-06-2016
Con tàu chở tình yêu

Con tàu chở tình yêu

Em thấy không tất cả đã xa rồi Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ Tuổi thơ kia

23-06-2016
Tha hương

Tha hương

(khotruyenhay.gq) Mấy năm trước, Hồng làm công nhân ở khu công nghiệp của thành phố.

27-06-2016
Cafe không dấu vết

Cafe không dấu vết

Ngón tay cái lên tiếng lúc đầu ngày, vỏn vẹn hai chữ "Cafe ?!". Ngón tay cái nào đó

24-06-2016
Thân gửi tháng 12!

Thân gửi tháng 12!

(khotruyenhay.gq - Tham gia viết bài cho tập truyện "Đời sinh viên") Lật tờ lịch tháng 11

24-06-2016
Hình phạt nặng nhất

Hình phạt nặng nhất

Có một câu chuyện cổ kể về một người theo đạo Do Thái mà lại rất thích chơi

01-07-2016