Lamborghini Huracán LP 610-4 t
Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ


Tác giả:
Đăng ngày: 11-07-2016
Số chương: 51
5 sao 5 / 5 ( 136 đánh giá )

Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 17

↓↓
Tham-tri chính sự, kiêm Vũ-lâm đại học sĩ Vũ Tán-Đường là người rất thân với Thủ-Huy. Ông hỏi :


- Trước đây Đại-Việt ta đã phải chịu ba loại độc chưởng từ nước ngoài đem vào. Một là Huyền-âm chưởng của phái Trường-bạch, hai là Chu-sa Nhật-hồ chưởng của Tây-vực, ba là Đoạn-cân tán cốt chưởng của phái Liêu-Đông. Nhưng về sau phái Đông-a đều tìm ra phương pháp khống chế. Phái Sài-sơn lại tìm ra thuốc giải, trị cho những người bị trúng ba loại chưởng trên. Trong lần đi sứ vừa qua, trong sứ đoàn còn có đại hiệp Phạm Tử-Tuệ, nổi tiếng về khoa trị độc. Tại sao Phạm đại hiệp không ra tay trị cho A-lỗ Cốt-Đả với Bác Nhĩ Truật, để mua cảm tình mai hậu ?


- Thưa đại học sĩ có.


Thủ-Huy trả lời :

bạn đang xem “Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


- Sau trận đấu, thì đoàn cao thủ Kim, Việt rời Khắc-liệt trở về. Lúc đi thì có sứ thần Khắc-liệt dẫn một đoàn kị mã hộ tống, để đưa đường, cùng phục dịch như nấu ăn, khi qua đêm thì cắm lều. v.v. Lúc về thì sợ tai mắt Mông-cổ, vì vậy phái đoàn chỉ có một đội phục dịch. Tất cả giả làm thương nhân. Đường Khắc-liệt, Yên-kinh phải mất hai mươi ngày sức ngựa, đi trên những vùng đồng cỏ mênh mông. Trải qua bốn ngày yên ổn, đến ngày thứ năm, thì giữa đêm khuya, đoàn bị một bọn cướp tấn công. Chúng gồm khoảng hơn trăm kị mã. Khi đến cách chỗ đóng trại của đoàn khoảng hơn hai dặm thì đồng hú lên rồi phóng tới. Cả đoàn kịp thời bừng tỉnh, lên ngựa tiếp chiến. Nhưng khi chúng lao tới khoảng một tầm tên, thì dừng lại bắn một loạt tên lửa, rồi bỏ chạy. Mấy căn lều bốc cháy. Đội kị mã Khắc-liệt với đám cao thủ Kim đuổi theo. Trong khi Sứ đoàn Việt ở lại chữa cháy, nhưng không kịp. Lều bị thiêu rụi, chỉ cứu được hành lý mà thôi. Sứ đoàn đang bơ vơ trong đêm thì lại một đòan kị mã khác tới tấn công. Sau loạt tên đầu tiên, tất cả bọn lao dịch Khắc-liệt bị giết hết. Cướp không bắn vào sứ đoàn. Đoàn kị mã dàn ra bao vây. Lối bao vây của họ rất đặc biệt : Vòng ngoài gồm 50 người, xa khoảng ba tầm tên. Vòng giữa gồm 30 người, xa khoảng hai tầm tên. Vòng trong gồm 20 người, xa khoảng một tầm tên. Họ đốt đuốc sáng rực, rồi im lặng. Sư thúc Trần Tử-Giác lấy cung, tên ra bắn liên tiếp bốn lần, mỗi lần năm mũi. Hai mươi người ở vòng trong đều bị bắn rơi mũ, rồi vẫy tay ra hiệu cho họ im lặng, không được tiến vào. Người thủ lĩnh bước ra khỏi hàng ngũ, họ hỏi một câu bằng thổ ngữ Kim, thấy sứ đoàn lắc đầu. Họ lại hỏi bằng thổ ngữ Khắc-liệt. Sứ đoàn cũng lắc đầu. Họ lại hỏi bằng thổ ngữ Cao-ly. Sứ đoàn cũng lắc đầu. Cuối cùng họ hỏi bằng tiếng Hàng-châu, rằng : « Các vị là người Hán phải không ? ». Sư thúc Phạm Tử-Tuệ đáp « Không, chúng tôi là người Việt ». Người thủ lĩnh cười lớn rồi nói :« Chúng tôi không phải là cướp. Chúng tôi tới đây để kết bạn với các vị. Chúa chúng tôi muốn mời các vị tới doanh trại chúng tôi có việc thương lượng, rất mong các vị không từ chối ».


Long-Xưởng cười :


- Thế bọn này là ai ?


- Chúng là người của Mông-cổ.


Long-Xưởng than :


- Quả thực bọn Mông-cổ trí lự siêu phàm. Chúng chỉ quan sát sơ cũng biết bọn Kim đứng sau lưng Tang Côn. Lại cũng biết sứ đoàn không phải là người Khắc-liệt. Vì vậy chúng mới đón đường, tấn công đợt đầu để ly khai bọn Kim với ta. Chúng muốn tránh một cuộc giao tranh, chỉ muốn dụ bọn Kim đuổi theo. Bởi nếu chúng chủ tâm tấn công, thì khi chúng tới sát lều trại mới ra tay. Đây chúng dàn ra ở xa hai dặm mà hò hét, thì có nghĩa là chúng muốn đánh thức mọi người dậy rồi mới xung phong. Thời gian này đủ để mọi người mặc giáp, thắng yên, lên ngựa, đuổi theo. Đợt sau, họ giết bọn phục thị, rồi mời ta, để khi bọn Kim trở lại, không biết ta đi đâu. Thôi nhị đệ thuật tiếp đi.


- Bọn kị mã Mông-cổ đều có hai ngựa, một ngựa để cỡi, một ngựa để đổi khi phi đường trường. Người chỉ huy ra lệnh cho một đội phi trước dẫn đường. Một đội chín người phi song song với chín người của ta. Phi tới sáng, thì gặp một đoàn quân đón đường. Họ chuẩn bị bữa ăn sáng sẵn sàng cho đội kỵ mã của họ và chín người của sứ đoàn. Sau khi ăn sáng xong, cả đoàn thay ngựa rồi lên đường. Đến giờ Mùi, thì tới một doanh trại vĩ đại, với những bầy ngựa, bầy cừu, trâu, bò đếm không hết, với hàng chục vạn lều da. Một đội quân dàn ra, cung tên, vũ khí sáng ngời đón sứ đoàn. Khi sứ đoàn vào đến cái lều to như một cung điện, thì Thiết Mộc Chân với ba tướng Tốc Bất Đài, Triết Biệt, Gia Luật Mễ cùng ra đón. Họ nói tiếng Hán rất sành sỏi, rất văn vẻ. Vừa vào lều, phân ngôi chủ khách xong, Thiết Mộc Chân đ ặt ngay vấn đề : « Khi thấy các vị, chúng tôi biết các vị là những cao nhân, không thể vì mấy đồng tiền mà theo Tang Côn. Cũng chẳng vì chút danh vọng mà theo Kim. Cho nên lúc giao đấu, các vị không muốn thắng. Đoàn cao thủ của phái Hoa-sơn cũng thế . Bởi vậy tôi nảy ra ý muốn mời các vị đến đây, với ba mục đích. Mục đích thứ nhất là xin các vị dùng hết bản lĩnh đấu với người của chúng tôi, để chúng tôi đươc mở rộng tầm con mắt. Thứ nhì, chúng tôi xin kết thân với các vị, trong tình huynh đệ, tương trợ. Thứ ba, nếu có thể chúng tôi xin được trao đổi võ công với các vị ». Thần nhi thấy họ hào sảng quá, thì trả lời ngay : « Trong ba điều Đại-hãn đưa ra, chúng tôi chỉ có thể tuân theo điều thứ nhất ».


Long-Xưởng hỏi :


- Thế người của ta đấu với ai ?


- Trận đầu, sư thúc Phạm Tử-Tuệ đấu với Tốc Bất Đài. Công lực của Bất Đài thực thâm hậu vô cùng. Y dùng Thiên-ưng chưởng pháp của Mông-cổ. Bộ chưởng này có 40 chiêu khác nhau, rất thô kệch, nhưng hùng mạnh vô tả. Sư thúc Tử Tuệ dùng Đông-a chưởng. Đấu đến chiêu thứ bẩy mươi thì hai chưởng giao nhau, cuộc đấu trở thành đấu nội lực. Sư thúc Tử-Tuệ thấy công lực của đối thủ quá hùng hậu. Nếu cứ đường đường, chính chính giao đấu thì e khó thắng, bởi vậy người mới dùng Qui pháp âm dương của Lĩnh-Nam, hút hết nội lực của y. Khi hút phân nửa nội lực của Bất Đài, thì người thấy rằng giữa y với sứ đoàn không thù, không oán, nên người thu nội lực về. Tốc Bất Đài bị thua, y khâm phục Phạm sư thúc vô cùng.


Khu mật viện sứ, lĩnh Trung-thư lệnh Tăng Khoa hỏi :


- Trận thứ nhì chắc công chúa đấu kiếm với Gia Luật Mễ, và thắng y dễ dàng. Trận thứ ba, hẳn đại hiệp Trần Tử Giác đấu cung với Triết Biệt. Không biết kết quả ra sao ?


Công chúa Đoan-Nghi đáp thay Thủ-Huy :


- Cuộc đấu này hào hứng vô cùng. Thứ nhất, bắn bia. Cảû hai cùng bắn vào hai cái bia. Mỗi bia là một tấm ván vẽ năm vòng tròn từ lớn đến nhỏ, đồng tâm, để cách xa năm mươi trượng (100m ngày nay). Vòng nhỏ nhất là một hồng tâm lớn bằng cái đĩa. Triết Biệt bắn trước. Cả năm mũi đều trúng hồng tâm. Khán giả reo hò. Họ cho rằng sư thúc Trần Tử -Giác không thể bắn hơn được. Sư thúc Tử-Giác bắn mũi thứ nhất, trúng giữa hồng tâm, làm khán giả im lặng, mở to mắt ra nhìn. Người bắn mũi thứ nhì, tên bay rất chậm, trúng đuôi mũi thứ nhất, tóe lửa ra, đẩy mũi thứ nhất xuyên qua bia. Cả hai cùng chọc thủng bia, khoét hồng tâm thành lỗ lớn, bay ra phía sau. Khán giả kinh hoàng, há hốc miệng ra, không nói một lời nào. Người lại bắn lần thứ ba. Lần này người bắn một phát, ba mũi tên cùng bay ra. Mũi thứ nhất sắp tới bia, thì mũi thứ nhì bay nhanh hơn, trúng đuôi mũi thứ nhất. Mũi thứ ba còn bay nhanh hơn nữa, trúng đuôi mũi thứ nhì. Cả ba mũi như nối đuôi nhau thành một mũi, chui tọt qua lỗ hồng tâm bay sang bên kia. Bây giờ khán giả mới có dịp vỗ tay hoan hô. Triết Biệt chạy lại nghiêng mình trước sư thúc Tử-Giác, tỏ ý tâm phục.


Trung-Thành vương Lý Long-Căn hỏi :


- Thế trận cuối cùng, Bác Nhĩ Truật có đấu với phò mã không ?


Công-chúa Đoan-Nghi đáp :


- Khải thúc phụ không. Bấy giờ Bác Nhĩ Truật bị trúng độc của A-lỗ Cốt-đả, công lực mất hết, người mềm như bún. Sư huynh của ông ta là Xích Lão Ôn đấu với phò mã. Lão Ôn dùng Huyền-âm chưởng của phái Trường-bạch, công lực ông ta thấp hơn Mao Bình, ngang với Đại-Việt ngũ tuyệt. Khi bắt đầu đấu, phò mã định dùng phương pháp phản độc chưởng của phái Đông-a, nhưng người nghĩ rằng, giữa những người hào sảng thảo dã này với mình không thù, không oán, nên chỉ vận công bảo vệ cơ thể, mà không đẩy độc tố trở lại người ông ta. Sau khi đấu đến chiêu thứ một trăm, không kẻ thắng người thua, coi như hòa. Hai bên cùng nhảy lùi lại. Đám đệ tử của Xích Lão Ôn, Bác Nhĩ Truật cùng mở to mắt ra kinh ngạc, vì bất cứ đối thủ nào đấu với họ, chỉ cần chạm vao chưởng của họ, là sau mười tiếng đập tim, sẽ đau đớn đến phải kêu cha gọi mẹ, không thuốc nào trị nổi. Cơn đau kéo dài trong một giờ rồi hết. Sau đó mỗi ngày lên cơn một lần, đến ngày thứ 49 thì chết. Bác Nhĩ Truật kinh ngạc hỏi phò mã : « Tôi nghe gần trăm năm trước, bên Đại-Việt có hai bác học trí tuệ siêu phàm. Một người tên Trần Tự-An đã chế ra phương pháp phá tất cả các độc chưởng. Phàm người nào dùng độc chưởng tấn công ông. Ông đẩy chất độc trở lại , khiến đối thủ chết thảm. Một người nữa tên Hồng-Sơn đại phu chế ra thuốc giải vĩnh viễn Huyền-âm chương, Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng, Liêu-Đông tán cốt loạn huyết chưởng. Vậy huynh đệ đây là truyền nhân của hai bác học trên. Có phải thế không ? ». Phò mã đáp : « Tôi là cháu bốn đời của Trần Tự-An ». Nghe vậy Xích Lão Ôn vái phò mã : « Người thực là anh hùng, đại độ, người không dùng thần công phản độc chưởng đánh tôi. Dám hỏi : Người có thể trị cho sư huynh tôi được không ? ». Sư thúc Tử-Tuệ nói : « Chữa cho Kim-ưng tứ lang vương thì tôi có thể. Nhưng... ».


Đến đây công chúa đưa mắt nhìn Thủ-Huy. Thủ-Huy chưa kịp thuật tiếp, thì Tô Hiến-Thành hỏi :


- Chắc Tử-Tuệ tiên sinh đặt điều kiện gì với Mông-cổ ?


- Thưa Thái-úy không.


Thủ-Huy đáp :


- Chính Thiết Mộc Chân cũng tưởng sư thúc đặt điều kiện. Ông ta sai mang ra một hộp hơn mười viên bảo ngọc, một tráp đựng năm nghìn nén vàng, một hộp đựng mười cây Thái-tử sâm Cao-ly, mà tạ rằng : « Nếu như tiên sinh có thể trị cho Kim-ưng của tôi, tôi xin biếu tất cả những vật mọn này cho tiên sinh ». Sư thúc đáp rằng : « Phép trị Liêu-Đông tán cốt loạn huyết chưởng chia ra làm ba giai đoạn. Giai đoạn một là dùng châm cứu mở tất cả bì bộ, cho độc chất thoát ra ngoài. Giai đoạn thứ nhì là dùng thuốc hóa giải các độc chất bản thân của phái Trường-bạch và chất độc của Liêu-Đông. Giai đoạn thứ ba là tái luyện lại võ công, phải dùng rất nhiều dược vật bổ dưỡng. Vì bao nhiêu nội lực của Kim-vương bị Liêu-Đông chưởng làm tan hết. Dùng châm cứu thì không khó, nhưng thuốc thì phải sai chim ưng mang thư về Đại-Việt xin Nam-thiên thánh y Lê Thúc-Cẩn ». Cuộc trị bệnh, thì trong mười ngày sau thì hoàn tất. Sứ đoàn không nhận vàng, ngọc, mà chỉ nhận mười cây Thái-tử sâm. Thiết Mộc Chân cùng Bác Nhĩ Truật chỉ lên trời thề rằng : « Trời xanh chứng cho chúng tôi. Hôm nay Bác Nhĩ Truật được người Việt chữa khỏi. Trọn đời Thiết Mộc Chân, Bác Nhĩ Truật ghi ơn, không bao giờ quên ». Sau đó họ cho người dẫn sứ đoàn về đến gần biên giới Kim thì chia tay. Chúa Mông-cổ hẹn rằng sẽ sai sứ sang kết hiếu, và tạ ơn Đại-Việt.


Long-Xưởng hỏi :


- Thế bao giờ thì sứ Mông-cổ tới ?


- Người Mông-cổ hành sự nhanh chóng. Khi họ hẹn, thì họ thi hành ngay. Có lẽ chỉ trong vòng một tháng là cùng.


Thủ-Huy dâng lên nhà vua một hộp bằng vàng, trên nắp khắc con chim ưng vỗ cánh bay ngang mặt trời :


- Tâu phụ hoàng, đây là mười củ Thái-tử sâm, mà lãnh chúa Mông-cổ Thiết Mộc Chân tặng sứ đoàn. Thần nhi xin dâng lên phụ hoàng.


Nhà vua hỏi Long-Xưởng :


- Thiết Mộc Chân tặng sâm là tặng cho Trần tiên sinh, chứ đâu có tặng ta, mà Huy nhi dâng lên ta ?


Long-Xưởng tâu :


- Tuy Thiết Mộc Chân tặng Trần sư thúc, song sư thúc nghĩ rằng mình đi trong sứ đoàn, thì quà này của Đại-Việt. Thần nhi xin phụ hoàng giữ lại bốn củ mà ngự. Vì Thái-tử sâm có hiệu năng tăng tuổi thọ. Phụ hoàng sai sứ đem về Thiên-trường ban cho đại hiệp Tự-Kinh bốn củ. Còn hai củ thì ban cho Thủ-Huy, để trị di độc bấy lâu đã hành hạ Huy đệ.


Tể tướng Đỗ An-Di than :


- Cái khí phách hào sảng của Mông-cổ như vậy, thì trước sau gì họ cũng chiếm được Khắc-liệt. Chiếm Khắc-liệt rồi họ sẽ chiếm Kim, và không chừng họ sẽ thừa thắng đánh cả Tống nữa. Liệu họ có dám đánh chiếm Kim, Tống, không ? Sau khi đánh Tống rồi họ có đánh Đại-Việt ta không ?


Long-Xưởng cười :


- Kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Kẻ thù của ta là Tống. Kim là kẻ thù của Tống thì Kim là bạn ta. Bây giờ ta liên minh với Kim. Nhưng ta không bán nước cho Kim. Trong thiên hạ này có hằng nghìn, hằng vạn nước. Ta phải mở rộng cửa đón tiếp tất cả các nước đến với ta trong tình bằng hữu. Dù Khắc-liệt, dù Đại-lý, dù Tây-hạ, dù Tây-liêu, dù Mông-cổ... nước nào muốn giao hảo, ta đều hân hoan đón tiếp. Còn nếu như bất cứ nước nào đánh Trung-quốc rồi, mà định tràn xuống đánh ta, ta thừa sức giữ nước. Cái vũ khí giữ nước của ta là làm cho dân giầu. Dân giầu thì nước mạnh.


Vương nhìn bọn quan chủ hòa rồi nói chậm, gằn từng tiếng :


- Xưa kia, những người thiển cận đọc sách của bọn văn gia hủ lậu Trung-quốc, rồi cúi đầu thần phục Trung-quốc, thản nhiên để họ coi mình là Nam-man, rồi còn ty tiện đến độ chấp nhận mình là Nam-man. Sau này, còn tệ hại hơn nữa, khi đọc tiểu thuyết hoang đường, ma trâu đầu rắn nói về thời Đông-Chu về thời Tây-Hán, Đông-Hán rồi cứ tin rằng vua Trung-quốc là con trời, các quan của họ là tiên, là thánh trên thượng giới giáng trần rồi đi thờ cúng các nhân vật tiểu thuyết. Cái quái gở là bọn quan lại Trung-quốc sang ta cai trị, chúng ngồi lên đầu lên cổ dân mình, chém giết người mình, vơ vét tài vật của mình, thế mà cũng làm đền thờ, rồi chổng mông, cúi đầu thì thụp lạy. Kìa ! Đền thờ Nhâm-Diêm, Tích-Quang, Sĩ Nhiếp còn kia ! Quái gở hơn nữa, lại có cỏ đền thờ Mã Viện. Cô gia muốn, ngay sau buổi triều hội này, bộ Lễ soạn chỉ hủy bỏ việc thờ Nhâm, Tích, Sĩ, Mã, biến các đền đó thành nơi thờ chư tướng bản triều có công đánh Tống.


Bọn quan lại chủ hòa nghe Long-Xưởng nói mà kinh sợ trong lòng. Tuy chúng muốn bài bác, mà không đủ lý. Long-Xưởng biết thế, vương đưa mắt nhìn Kiến-Ninh vương. Vương hiểu ý anh, tiếp lời :


- Ta có tật đọc sách Trung-quốc rồi mê mê tỉnh tỉnh như người lên đồng. Liêu, Kim, Hạ họ cũng học sách của Trung-quốc, nhưng họ tỉnh táo hơn. Không những họ vượt ra ngoài cái ngu muội tự coi mình là Di, là Nhung, là Địch, mà còn bắt Trung-quốc phải khuất phục họ. Họ đem quân chiếm đất, đặt thành quận huyện cai trị. Cuối cùng họ giết tươi cái ông con trời trong lòng người Hoa bằng cách bắt tiến cống hằng năm. Tiến cống đó không có tính cách tuỳ hỷ như ta cống Trung-quốc, mà hằng mấy chục vạn lượng vàng, hằng vạn tấm lụa, hằng trăm vạn cân thóc. Còn ta ! Ta không ra quân với chủ tâm chiếm đất của Trung-quốc, mà chỉ mong tiến lên đòi lại cố thổ, hoặc lùi về, thì cũng ngồi ngang hàng với Trung-quốc.


Triều đình đông đến gần hai trăm người, mà im phăng phắc, không một tiếng động.


Long-nhương thượng tướng quân Lưu Khánh-Bình muốn phá cái yên tĩnh đó, ông hỏi :


- Theo sự ước tính của phò mã, thì liệu sau này chiến tranh giữa Khắc-liệt với Mông-cổ có thể xẩy ra không ?


- Thưa Thiếu-sư, nhất định là có. Vì cái việc Tang Côn dựa thế các võ sĩ Kim, trước sau gì thì Thiết Mộc-Chân cũng biết. Khi ông ta biết Tang Côn không có tướng tài, trong quá khứ đang mưu hại ông ta. Như vậy thì ngày một ngày hai, Tang Côn cũng sẽ đánh Mông-cổ , cái thế đó, bắt buộc ông ta phải ra tay trước. Vả bốn đại tướng của ông ta không chỉ võ công cao, mà tài dùng binh của họ không một tướng của Khắc-liệt nào có thể so sánh.


Binh-bộ thượng thư Phí Công-Tín than :


- Xét lực lượng Mông-cổ, Khắc-liệt, thì quân Khắc-liệt đông hơn. Xét về binh thế, thì Mông-cổ có binh hùng, tướng mạnh lại kỷ luật hơn. Trong trường hợp xẩy ra chiến tranh, thắng bại khó phân, bấy giờ Kim đem một đạo quân nhỏ sang là chiếm được cả hai.


Công-chúa Đoan-Nghi xua tay :


- Thưa thượng thư không hẳn như vậy đâu. Địa thế vùng Bắc Trung-quốc là những đồng cỏ mênh mông. Đân chúng trong một bộ tộc sống tập trung thành từng đoàn trại một. Họ luôn di động. Mỗi mùa đóng tại một nơi. Kim muốn đánh họ, không phải là điều dễ dàng. Binh pháp của họ cũng khác xa với ta. Ta với Trung-quốc thì có kị binh, bộ binh, thủy binh. Ta lại đóng quân trong thành, khi xuất trận thì dàn quân, phục binh, dùng hỏa công, bắn đá, bắn cung. Còn họ, thì họ chỉ có kị binh. Hai bên dàn trận, rồi xung sát. Trận chiến dài nhất cũng chỉ trong nửa ngày. Kẻ thua thì hoặc là đầu hàng, hoặc là bị tiêu diệt. Cho nên nếu chiến tranh giữa Khắc-liệt với Mông-cổ xẩy ra, thì thắng bại chỉ trong một ngày. Tin này đưa về Kim thì cũng mất đôi ba tháng. Kim có chỉnh bị binh mã kéo lên cũng mất ba tháng nữa. Trong thời gian ấy, bên thắng thừa thời gian chỉnh bị lại lực lượng để đối phó. Vì vậy Kim cũng chỉ muốn chọc cho các nước này có nội chiến, dùng nồi da xáo thịt, khiến lực lương yếu đi, không thể đánh sau lưng họ ; chứ họ không muốn ra quân.


Tuyên phi Thụy-Hương hỏi :


- Này phò mã, trước đây phò mã vì phát tâm Bồ-đề, mà hút độc cứu công chúa. Nam-phương thần y Lê Thúc-Cẩn từng chẩn mạch, rồi nói rằng bệnh của phò mã tuy không lên cơn nữa, nhưng có thể chết bất cứ lúc nào. Nếu như có Thái-tử sâm thì trị được. Nay phò mã có hai củ sâm này, thì không còn sợ gì nữa. Có phải thế không ?


- Quả như Tuyên-phi nghĩ.


Dao-thụ thái phó Ngô Lý-Tín hỏi :


- Thế còn việc trị bệnh cho A-lỗ Cốt-đả ?


Thủ-Huy đáp :


- Vì thấy Kim chưa chắc đã thực lòng, nên sư thúc Tử-Giác bàn rằng : « Trong tương lai, nếu Kim đánh Tống, thì người cầm quân là A-lỗ Cốt-đả. Vậy ta không nên chữa tuyệt bệnh cho y, mà chỉ cho thuốc giải cầm chừng, mỗi năm phải cho tiếp. Như vậy mới có thể kiềm chế được y ».


Long-Xưởng hỏi :


- Nội dung cuộc đi sứ vừa qua là như vậy. Binh lực, lương thảo của ta, của Kim, của Đại-lý đều chưa chuẩn bị xong. Bốn hạm đội Âu-Cơ, Động-đình, Bạch-đằng, Thần-phù cần được bổ xung bằng các chiến hạm mới. Nếu như trong ba năm nữa Kim, Đại-lý ra quân, thì Đại-Việt ta có thể vượt biên. Vậy xin chư vị đại thần cho biết ý kiến.


Một đại thần từ văn ban bước ra :


- Thần Thái-tử thiếu bảo Hiệp-biện đại học sĩ, lĩnh Gián nghị đại phu, kiêm Hình-bộ thượng thư Trần Trung-Tá kính tâu.


Long-Xưởng tuyên chỉ :


- Xin đại học sĩ bình thân.


- Từ sau đời vua Thần-tông, Tống luôn luôn hòa hoãn với ta. Mới đây lại công nhận quốc danh An-Nam. Khi phong, thì phong ngay là An-Nam quốc vương, chứ không còn phong là Giao-chỉ quận vương, rồi dần dần thăng lên như trước nữa. Như vậy rõ ràng Tống có thiện tâm với ta. Thế mà bây giờ, thình lình ta liên binh với Kim, Đại-lý, đánh phá Tống. Cái việc như thế, thì người có đức không thể làm, đấng nhân quân không thể ra quân. Vậy xin bệ hạ xét lại. Nếu như ta tiến quân, thì việc đòi lại cố thổ chưa chắc đã thành, mà trăm họ phục dịch khốn khổ, binh tướng chết không phải hàng nghìn, hàng vạn, mà hàng chục vạn.


Kiến-Ninh vương xua tay:


- Thượng thư luận vậy là luận lấy được. Thượng thư nói Tống luôn hòa hoãn với ta. Thế cái việc Tống gửi sứ đoàn sang, tạo thành triều đình gà mái gáy, nếu anh hùng thiên hạ không ra tay, thì giờ này giang sơn Đại-Việt đã thành quận huyện của Tống . Mà cái gã Lưu Kỳ kia đang ngồi trên ngai, chứ không phải là phụ hoàng. Còn như việc Tống công nhận quốc danh An-Nam, chịu phong cho phụ hoàng làm An-Nam quốc vương, là do ta. Ta sai sứ sang cật vấn họ về tội cử sứ đoàn , mưu cướp ngôi. Cũng chính ta dàn Thủy-quân ngoài khơi Khâm-châu, dàn Thiên-tử binh trên vùng Bắc-cương... Tất cả điều đó chứng minh rằng Tống có dã tâm chiếm nước ta. Nay, nghìn năm một thủa, ta mới kết thân được với Kim, Đại-lý để cùng ra quân. Đấy chính là dịp trời cho. Trời cho mà không lấy, thì sẽ là điều ân hận nghìn thu.


Thế rồi các quan lại bàn đi, luận lại. Tể tướng Đỗ An-Di vẫn đi dây giữa hai chủ trương chiến và hòa. Tô Hiến-Thành, Phí Công-Tín, Lý Kính-Tu, Trần Trung-Tá, Ngô Lý-Tín, Đàm Dĩ-Mông vẫn chủ hòa. Còn lại Trung-Thành vương, Kiến-Ninh vương, Kiến-An vương, Kiến-Tĩnh vương, Bùi Kinh-An, Vũ Tán-Đường, Trần Thủ-Huy, Lưu Khánh-Bình, Tăng Quốc, Tăng Khoa vẫn chủ chiến. Ngoài ra, một số đông đại thần thì lừng khừng không ý kiến.


Nhà vua nghe hai phe tranh luận, ngài tỏ vẻ mệt mỏi, tuyên chỉ :


- Nay trẫm tuổi đã cao, sức yếu, mọi việc đều trao cho Thái-tử. Vậy chư khanh với Thái-tử tiếp tục, trẫm hồi cung.


Long-Xưởng hô :


- Bãi triều.


Nhạc tấu bản Long-hồi. Chính-long Bảo-ứng hoàng đế cùng với Tuyên-phi Từ Thụy-Hương hồi cung.


Long-Xưởng đứng dậy tuyên chỉ :


- Việt, Hán không thể cùng đứng, nếu ta yếu. Trong mấy nghìn năm lịch sử, họ chỉ để ta yên, khi ta mạnh. Cô gia nhắc lại : Chúng ta không có ác ý với người Hán, lại càng không có ý xâm chiếm lãnh thổ Tống. Dù luận hòa, hay luận chiến, chúng ta cũng phải đạt được bằng này điều. Một là giết cái ông con trời trong lòng bọn hủ nho Trung-quốc. Cái ông trời con, coi những dân xung quanh là Di, là Man, là Địch, là Nhung. Mà cái ông trời con đó do bọn văn nhân ngu xuẩn viết ra sách Thượng-thư, di hại cho đời sau. Xưa kia Ngũ-hồ chiếm Trung-nguyên, rồi gần đây Liêu, Kim cai trị người Hán bắt Tống tiến cống.Thời Anh-vũ chiêu thắng ta đánh Ung, Liêm, Khâm, Dung, Nghi, Bạch... cũng chỉ mới đánh ngã ông trời con, chứ chưa giết được. Hai là, ta nói với họ rằng, dân tôi thưa, đất tôi hẹp, nhưng chúng tôi không thiếu anh hùng, liệt nữ giữ nước. Dân anh tuy đông, nước anh tuy rộng, nếu anh để tôi yên, thì anh co một láng giềng tốt . Còn như anh muốn ăn hiếp tôi, thì anh sẽ có một đối thừa sức mạnh giữ nước. Ba là, dù không đòi lại cố thổ, thì ta cũng bắt Tống bỏ cái ý xâm lăng, không thể bắt ta tu cống như phiên thần nữa. Vậy ngay bây giờ, chúng ta phải dồn hết khả năng huấn luyện Hoàng-nam để có thể bổ xung cho các hiệu Thiên-tử binh khi bị tổn thất. Lại huấn luyện Hoàng-nữ, để có thể giữ an ninh làng xã, đủ sức chống với giặc khi giặc tràn sang. Chúng ta có thêm ba đến năm nữa để làm việc đó.


Ghi chú của thuật giả:


Việc này ĐVSKTT chép rất sơ lược, gần như là không chép gì :


Chính-long Bảo-ứng thứ tám (Canh Dần, Dl.1170): Vua tập bắn và cỡi ngựa ở phía Nam thành Đại-la, đặt tên là Xạ-đình, sai các quan võ hằng ngày luyện tập phép công chiến, phá trận.


Chính-long Bảo-ứng thứ chín (Tân Mão, Dl. 1171). Vua đi tuần các hải đảo, xem khắp hình thể núi sông, muốn biết dân tình và đường đi xa gần thế nào.


Chính-long Bảo-ứng thứ mười (Nhâm Thìn, Dl.1172). Mùa Xuân tháng hai, vua lại vua lại đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam, Bắc, vẽ bản đồ, ghi chép phong vật rồi trở về.


Tống triều công thần bi ký, phần văn bia Lưu Kỳ ghi :


... Niên hiệu Càn Đạo thứ chín (Tống Hiếu-tông, Quý Tỵ, Dl. 1173) Công (chỉ Lưu Kỳ) tâu về triều chi tiết việc An-Nam thao luyện binh mã, đóng chiến thuyền, chế vũ khí, chuẩn bị phạm biên. Vua truyền Khu-mật viện xét trình, tìm cách đối phó...


Chỉ độc giả Anh-hùng Đông-a mới biết rõ những việc đó do Long-Xưởng, Thủ-Huy chuẩn bị mà thôi.


Hơn tháng sau, một hôm Long-Xưởng đang thiết Đông-cung triều, thì có ngựa trạm từ trấn Đồn-sơn về báo : « Vua nước Mông-cổ gửi một sứ đoàn sang kết hiếu. Họ đi bằng thuyền. Chánh sứ là quan Đại-tư mã Bác Nhĩ Truật, phó sứ là đại tướng quân Mộc Hoa Lê. Xin chờ chỉ dụ ». Long-Xưởng mừng lắm, vương ban chỉ cho phò mã Trần Thủ-Huy với công chúa Đoan-Nghi thân ra Đồn-sơn tiếp sứ đoàn. Khi Thủ-Huy đi, thì đi bằng ngựa. Lúc về Thăng-long, thì lại đưa sứ về bằng thủy quân. Lại sai sứ về Thiên-trường mời đại hiệp Phạm Tử-Tuệ, Trần Tử-Giác cùng Vỵ-xuyên ngũ tiên về để cùng tiếp sứ. Trong khi đó thì Long-Xưởng cùng vương phi Trang-Hòa với Lễ-bộ thượng thư Ngô Lý-Tín chuẩn bị tiếp sứ ở Thăng-long.


Từ khi Lý triều lập lên thì triều đình đã ban hành điển lệ về việc tiếp sứ rõ ràng. Khi Đại-Việt thường tiếp sứ ngoại quốc như Chiêm-thành, Lão-qua, Chân-lạp thì tiếp bằng lễ nghi của một đại quốc, tiếp chư hầu, nên giản tiện. Sứ đoàn thường trên dưới năm mươi người. Khi sứ thần tới biên giới, thì quan tổng trấn cho ngựa trạm phi về kinh loan báo. Triều đình sai một đại thần ở bộ Lễ, thường là một viên Thị-lang, (tương đương với ngày nay là Tổng-giám đốc) đi đón. Quan trấn thủ biên giới cử một đội binh, có âm nhạc theo rước . Dọc đường, các Tuyên-vũ sứ, An-vũ sứ dùng công nho đài thọ ăn uống, cung cấp chỗ ở cho sứ đoàn. Khi sứ đoàn đến Thăng-long, được ở Nghênh-tân các. Bộ Lễ cung cấp người thù phụng, giao tiếp, hướng dẫn. Còn phủ thừa Thăng-long cung cấp người phục dịch, làm yến đãi. Nhà vua sẽ thiết đại triều. Sứ thần phải quỳ gối tung hô vạn tuế, rồi được mời ngồi. Khi sứ đoàn về, nhà vua sẽ gửi quà tặng cho quốc-vương, tặng cho sứ thần, sứ đoàn các loại vàng bạc, phương vật nhiều ít tùy thứ bậc.


Còn tiếp sứ Trung-quốc thì lại khác. Sứ đoàn thường trên trăm người. Khi sứ đoàn tới biên giới, quan tổng trấn rước vào dinh thù tiếp, dùng tiền bạc công nho khoản đãi, cung phụng ; rồi sai ngựa lưu tinh tâu về triều. Nhà vua sai Thái-tử hoặc thân vương, đem một đoàn đại thần lên rước. Dọc đường, sứ đoàn qua phủ, huyện nào, thì phủ huyện ấy khẩn cho người làm cỏ, cắt cây, đặt trạm dâng nước, hoa, quả. Còn như nơi sứ đoàn ngừng lại qua đêm, thì chính Tuyên-vũ sứ phải mặc đại triều tiếp rước, làm yến đãi. Khi sứ đoàn tới kinh thì nhà vua dàn giáp sĩ, đội nhạc Hoàng- cung, rồi thân dẫn tất cả đại thần ra cửa thành tiếp rước. Sứ đoàn được cư trú trong gác Triều-dương. Bộ Lễ cử các quan thường trực cung ứng nhu cầu. Hằng ngày phủ thừa Thăng-long làm yến khoản đãi. Nếu sứ thần sang phong chức tước cho nhà vua, thì nhà vua phải đặt hương án. Khi sứ thần đọc sắc phong, thì nhà vua phải quỳ gối hướng về Bắc nghe, rồi lạy tạ.


Mông-cổ đối với Đại-Việt không phải là Thiên-quốc, cũng không phải là chư hầu, mà là một cường quốc. Sứ đoàn sang không với mục đích tiến cống, dĩ nhiên cũng không phải để tấn phong, mà chỉ với mục đích cảm tạ về việc cứu người, hơn nữa để kết thân.


Thái-tử Long-Xưởng gửi phò mã Trần Thủ-Huy, công chúa Đoan-Nghi đi đón sứ đoàn với hai ý nghĩa : Đại-tư mã Mông-cổ đến, thì công chúa cùng Tổng-lĩnh Thiên-tử binh đi đón. Ý nghĩa thứ nhì là : Các vị gửi người chịu ơn sang tạ, thì tôi cũng gửi người ra ơn đi đón.


Ba hôm sau, sứ đoàn được hạm đội Aâu-Cơ hộ tống, khi đi vào địa phận sông Hồng thì gặp hạm đội Thần-phù dàn ra hai bên sông, bắn ba mươi sáu mũi Lôi-tiễn , tấu nhạc đón mừng. Rồi lúc sứ đoàn tới Thăng-long thì một lần nữa hạm đội Bạch-đằng dàn ra, bắn Lôi-tiễn chào đón. Khi soái thuyền chở sứ đoàn tới bến Tiềm-long, thì đích thân Thái-tử Long-Xưởng, chư đại thần Đông-cung quan, hai đại hiệp Phạm Tử-Tuệ, Trần Tử-Giác, Vỵ-xuyên ngũ tiên cùng đón. Từ bến Tiềm-long đến thành Thăng-long, giáp sĩ dàn ra, gươm đao sáng ngời. Sứ đoàn được đưa vào cư ngụ trong Triều-dương các. Mọi thù phụng, đều áp dụng như đối với sứ thần Trung-quốc.

Chương trước | Chương sau

↑↑
Bích Huyết Kiếm - Kim Dung

Bích Huyết Kiếm - Kim Dung

Trích đoạn: Mặt trời sắp lặn, đàn quạ đang bay về tổ. Trên con đường cái quan

11-07-2016 1 chương
Phong Vân - Đan Thanh

Phong Vân - Đan Thanh

Giới thiệu: Bạn là người yêu thích truyện kiếp hiệp? Bạn là người yêu thích đến

09-07-2016 70 chương
Bách Bộ Ma Ảnh - Vô Danh

Bách Bộ Ma Ảnh - Vô Danh

Nếu mọi nhà ở thành Lạc Dương nao nức chờ đến một ngày mới trong cái Tết ròng

11-07-2016 51 chương
Ba và con gái

Ba và con gái

Hôm qua ba vào thăm con, con nhớ ba lắm... Nhớ cái bụng tròn tròn của ba dù con gái lớn

28-06-2016