Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ


Tác giả:
Đăng ngày: 11-07-2016
Số chương: 51
5 sao 5 / 5 ( 82 đánh giá )

Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 12

↓↓
Đào-nguyên thanh thủy, thùy tri vị?


Anh hùng nan quá mỹ nhân quan.


Dịch :


Ngọn suối Đào-nguyên ai biết vị ?

bạn đang xem “Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


Anh hùng khó vượt mỹ nhân quan.


Sau cái đêm dẹp loạn, thanh toán được triều đình gà mái gáy, phá vỡ âm mưu chiếm Đại-Việt bằng phòng the của Tống ; thì Long-Xưởng bận rộn vô cùng. Nhưng nhờ hai lão thần có tài kinh bang, tế thế là Lưu Khánh-Đàm, và Hoàng Nghĩa-Hiền phụ chính việc triều đình. Trong Đông-cung thì có vú Loan, vú Mai, Thủ-Huy, Tăng-Khoa, Trang-Hòa, Thụy-Hương, Như-Như là những người trung thành, tinh minh mẫn cán phò tá. Ngoài ra, còn ba người em trai là Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa tuy võ công không cao nhưng kẻ thì mưu trí, người thì mẫn tiệp trợ giúp bên cạnh.Thái-tử Long-Xưởng xin thiết đại triều, để chư đại thần đình nghị, luận công thăng thưởng. Công đầu là Thái-sư Lưu Khánh-Đàm, Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền, vì hai vị đã ở ngôi quan cao cực điểm, nên chỉ thăng tước và thêm mỹ tự mà thôi. Khánh-Đàm được phong Trường-yên quận vương thêm mỹ tự Thủ-tiết công thần, Nghĩa-Hiền được phong Hồng-châu quận vương thêm mỹ tự Trung-thứ công thần.


Khi luận bàn đến việc phong chức tước cho Trần Lý, Thủ-Huy, Tô Trung-Từ, Phùng Tá-Chu thì Trần Lý, Trung-Từ, Tá-Chu khẳng khái từ chối. Triều đình ép quá, Trần Lý tâu :


- Nếu như bệ hạ cho rằng thần có công, thì xin ban cho ba anh em thần một hoàng ân.


Nhà vua tuyên chỉ :


- Xin thiếu hiệp cứ nói.


- Anh em thần tuy nhỏ tuổi, nhưng cũng có đôi chút hư danh trong việc giáo hóa người. Vậy thần dám xin bệ hạ ân xá cho tất cả tội nhân tại trấn Thiên-trường, rồi trao cho anh em thần. Anh em thần sẽ đem về trang ấp dạy dỗ để họ thành ngoan dân.


Nhà vua ngơ ngác hỏi Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền. Thái phó tâu :


- Tâu bệ hạ, thiếu hiệp Trần Lý tuy nhỏ tuổi, nhưng tư cách khác phàm. Từ năm mười hai tuổi, thiếu hiệp đã cùng hai người bạn là Tô Trung-Từ, Phùng Tá-Chu hăng hái làm ruộng, chăn nuôi, đánh cá như người lớn. Ba vị còn rủ các thiếu niên nam nữ ngang tuổi lập thành các đội khai hoang, mỗi đội mười người. Các đội này cùng phá rừng, đốt cỏ khai khẩn thành đất trồng cấy hoặc thành ruộng. Trung bình mỗi người, một tháng khai hoang hơn hai mẫu. Hiện dưới tay thiếu hiệp có 50 toán. Trong năm qua, các toán này đã khai được một vạn, sáu nghìn mẫu (16.000). Ba thiếu hiệp lại đi chiêu mộ bọn vong mạng, bọn vô lại, bọn trộm cướp, rồi đem về dạy dỗ. Sau đó cấp ruộng cho chúng.


Các quan nghe Hoàng Nghiã-Hiền tâu bất giác họ cùng nhìn ba thiếu niên với con mắt thán phục.


Hoàng Nghĩa-Hiền tâu tiếp :


- Trần thiếu hiệp còn cho đào ao nuôi cá, nuôi tôm, nuôi cua ; lập trại nuôi gà, nuôi vịt, nuôi lợn đặt tên là trại Thần-nông. Cho nên gần đây hầu hết thực phẩm của Thăng-long do các trại Thần-nông của ba thiếu hiệp cung cấp. Dân chúng gọi Trần thiếu hiệp là Thần-nông sứ, Tô thiếu hiệp là Khai-hoang sứ, Phùng thiếu hiệp là Hải-hà sứ.


Nhà vua tuyên chỉ chấp thuận lời thỉnh cầu của bọn Trần Lý. Ba người lạy tạ, rồi xin lui.


Bây giờ triều đình nghị đến việc phong chức tước cho Thủ-Huy. Việc này phải nghị đến hai ngày mới xong. Xét đúng công của nó, nào là hy sinh tính mệnh cứu giá thái-tử hai phen. Đem chính nghiã làm cho bọn Ngô Giới, Lưu Kỳ, bọn sứ đoàn khiếp sợ, lại cùng Vỵ-xuyên ngũ tiên bắt trọn sứ đoàn mật Tống . Trực tiếp chỉ huy võ sĩ cứu giá nhà vua, hoàng-hậu, thái-tử, công-chúa, và triều đình... Với công lao như vậy, thì tước phải tới công, chức phải tới đại tướng quân. Thế nhưng, luật ban ra từ thời vua Thái-tổ, dù một thiếu niên công lao đến đâu cũng không được phong chức tướng trước hai mươi tuổi. Cuối cùng Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền phải dẫn Tống sử : Thời niên thiếu, Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai, kết huynh đệ với Tống Nhân-tông, cứu giá ba phen, dù chưa đủ hai mươi tuổi, nhưng vẫn được phong tước Ngô-quốc quận vương, lĩnh ấn tướng quân. Triều đình đồng tâu nhà vua phong Huy hàm Thái-tử Thiếu-bảo, lĩnh chức Trung-nghĩa thượng-tướng quân, tổng lĩnh Thiên-tử binh, tước Thọ-xương hầu. Tăng Khoa được phong hàm Thái-tử mật thư tỉnh sự tước Nghi-tàm bá. Đỗ Trang-Hòa được phong Hiếu-khang Thạc-hòa quận chúa. Từ Thụy-Hương được phong Oân-huệ Nhu-mẫn quận chúa. Đào Như-Như đươc phong Tuyên-đức Ninh-tĩnh quận chúa. Oâng Đào Duy được xung chức tổng lĩnh nhạc công, bà Như-Yên được phong Lễ-nghi học sĩ, để dạy cung nga.


Các quan đều được thăng chức tước, lớn nhỏ khác nhau.


Nhân dịp này Long-Xưởng xin phụ hoàng phong tước cho ba em trai là Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa cùng cho mở phủ đệ riêng. Nhà vua chuẩn tấu :


Long-Minh được phong : Đại đô đốc thống lĩnh thủy quân, Khu-mật viện sứ, Kiến-Ninh vương.


Long-Đức được phong: Phụ-quốc thượng tướng quân, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Long-thành tiết độ sứ, tổng-lĩnh thị-vệ, kiêm tổng-lĩnh cấùm-quân, Kiến-An vương.


Long-Hòa được phong như sau : Tả kim ngô thượng tướng quân, Đồng-bình chương sự, Trấn-Nam tiết độ sứ, tổng trấn Thanh-Nghệ, Kiến-Tĩnh vương.


Nhân sự tại Đông-cung, thì hoàng hậu thay đổi toàn bộ. Bọn chân tay của thái hậu như Lê Du, Đỗ Anh-Hạc, cùng những tên du thủ, du thực được đưa vào Đông-cung làm thị vệ, cung nga thái giám, mã phu, bộc phụ...để bao vây Long-Xưởng, đã bị giết sạch trong đêm chính biến. Hoàng hậu tuyển cho Đông-cung những người thân tín mới. Trong Đông-cung, hậu chỉ cho giữ lại có vú Mai, vú Loan, Á-nương, con Nhàn. Vú Loan, vú Mai được phong lên hàng nhất phẩm phu nhân, còn mỹ tự Nhu-mẫn đoan duệ, Thạc-hòa anh văn thì vẫn giữ nguyên. Nhân dịp này Trần Lý xin Long-Xưởng ban cho Á-nương, con Nhài đôi chút mỹ tự, chứ cứ gọi cái tên như vậy nghe thiếu vẻ thanh nhã. Long-Xưởng phong cho Á-nương làm Trung-Tĩnh nương, điều khiển cung nga, thái giám phụ trách ngự thiện đường. Con Nhài được phong Tín-Hương nương, điều khiển cung nga, thái giám phục thị tại ngự thư phòng, tẩm thất và trồng tỉa hoa.


Tuy niên việc phong tước cho Á-nương chưa thực hiện được. Vì trước ngày Long-Xưởng lên đường đi Thiên-trường, thì người nhà Á-nương lên báo cho biết thúc phụ nàng mới qua đời. Long-Xưởng thương tình người nô bộc tàn tật, trung thành, vương truyền ban tiền, lụa cho nàng, rồi cho về cư tang ba tháng. Hiện việc của Á-nương do Tín-Hương nương đảm trách.


Nhắc lại : Từ khi khám phá ra trong chiếc áo hồ cừu của Linh-Nhân hoàng thái hậu chép rất nhiều võ công. Long-Xưởng học thụộc, rồi đối chiếu tự luyện. Nhưng vì chưa có căn bản, nên vương chỉ luyện thành có nội công Ăm-nhu cùng bộ Cửu-chân chưởng, Loa-thành chưởng. Còn Mê-linh kiếm pháp thì tuy đã luyện thành từng chiêu. Song vương không biết làm sao nối các chiêu lại với nhau. Vì vậy vương chỉ truyền những gì mình học được cho mẫu hậu, cho ba người em Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa và bọn Đoan-Nghi, Trang-Hoà, Thụy-Hương, Tăng Khoa. Khi vương đón vợ chồng Đào Duy về Đông-cung, hai vợ chồng này là đệ tử của bà Lê Thúc-Cẩn, nhũ danh Ngô Lan-Chi. Bà thuộc vai sư muội của chưởng môn Nghi-Ninh sư thái. Hai người từng học căn bản võ công Mê-linh rất vững chắc. Bao nhiêu thắc mắc của Long-Xưởng, hai người trả lời được hết. Nhờ vậy, mà võ công Long-Xưởng tiến rất mau. Nhưng việc nối các chiêu vẫn không đạt được.


Trong những ngày ở Thiên-trường, Long-Xưởng không dấu diếm cái khiếm khuyết của mình. Vương đem tất cả võ công chép trong áo hồ cừu ra hỏi đại hiệp Tự-Kinh. Là một bác học về võ công trời Nam, Tự-Kinh chỉ nghe qua, ông đã hiểu thấu. Ông giảng giải chi tiết cho Long-Xưởng nghe. Khi ông giảng, Trần Lý, Thủ-Huy cũng ngồi cạnh. Vì được huấn luyện căn bản, nên ông nội nói đến đâu hai anh em hiểu đến đó. Trong khi Long-Xưởng chỉ hiểu được năm phần. Trên đường từ Thiên-trường về Thăng-long, Thủ-Lý lại giảng giải thêm cho Long-Xưởng.


Tới Thăng-long, Long-Xưởng để Trần Lý thay thế mình dạy võ cho ba em trai cùng bọn Đoan-Nghi, Trang-Hòa, Thụy-Hương, Như Như, Tăng Khoa.


Trong bốn thiếu nữ, thì ngay từ khi mới gặp nhau, giữa Long-Xưởng với Trang-Hòa đã nảy sinh ra mối tình thanh mai, trúc nhã. Tăng Khoa với Như-Như thì ríu rít như đôi chim ; khi ăn, khi học, lúc luyện võ, lúc chơi đùa, luôn có nhau.


Khi Trần Lý về Thăng-long, thì với tính tình vui vẻ, hòa nhã với mọi người, nhất là thông cảm với người nghèo phải làm tôi tớ. Chàng được bọn thái giám, cung nga, bộc phụ, mã phu, thân binh coi như là một ông phúc. Khi nói chuyện, dù với Long-Xưởng, hay dù với những kẻ hèn hạ như con Nhài (Tín-Hương nương), chàng đều dùng ngôn từ đầm ấm, trang trọng như nhau. Hóa cho nên bọn này kính yêu chàng tuyệt đối. Chàng lại dạy cho thiếu nữ tàn tật này cách trồng hoa, tỉa hoa, cắm hoa. Hóa cho nên Tín-Hương thâm cảm ơn chàng, mà phục thị hàng hết sức chu đáo. Ngày Trần Lý lên đường trở về Thiên-Trường, Tín-Hương nương khóc khốn khổ.


Còn Thủ-Huy với Đoan-Nghi, Thụy-Hương đã ở vào cái thế tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Nhưng Thủ-Huy chưa nghiêng hẳn về người nào. Nếu so về nhan sắc, mỗi người một vẻ.


Đoan-Nghi thì đẹp nhu mì, đôi mắt đen to, lưng ong, chân tay dài. Mỗi cử chỉ, lời nói đều đường bệ, rõ ra vẻ một đấng cha mẹ dân. Tư thái của nàng khoan thai, nhẹ nhàng, dáng điệu ôn nhu văn nhã, thông minh tuyệt đỉnh. Khi Thái-phó giảng về văn chương, chính sự, chỉ cần nói thoáng qua, nàng đã hiểu liền. Nàng lại có văn tài, cử bút thành văn, bẩy bước thành thơ. Nhưng Đoan-Nghi thiếu cái kinh nghiệm dân gian. Nhất là nàng phải ở trong cung với mẫu thân, không được gần Thủ-Huy , thành ra giữa nàng và Thủ-Huy có một khoảng cách khi truyện trò.


Ngược lại, Thụy-Hương thì vẻ đẹp khi có khi không, mờ mờ nhân ảnh, chứa chất nét huyền bí. Bất cứ ai, khi đối diện với nàng, cũng bị đôi mắt nàng hút mất hồn phách. Nàng học văn tạm được, nói năng thiếu cái nhu nhã, cử chỉ thiếu trang trọng. Nhưng, có một điều mà Đoan-Nghi không thể bằng Thụy-Hương là Thủ-Huy với nàng rất hợp truyện, vì cả hai người cùng có cái kinh nghiệm dân dã. Nàng lại ở trong Đông-cung, ngày đêm truyện trò với Thủ-Huy. Trời cho nàng cái hoa tay nấu ăn. Đông-cung có ba ngự trù dưới quyền vú Loan, nhiệm vụ nấu nướng cung phụng cho Long-Xưởng, Thủ-Huy, hoặc làm yến thiết đãi các Kinh-diên quan, ban thưởng cho các quan. Về sau thêm con Nhài, Á-nương là hai người có hoa tay về nấu nướng. Từ khi Thụy-Hương nhập Đông-cung, thì hầu như các ngự trù, con Nhài, Á-nương do nàng chỉ huy. Vú Loan được nhàn hạ hơn. Cho nên Thủ-Huy phân vân, như người đứng giữa ngã ba đường. Hầu chưa quyết định nghiêng về Đoan-Nghi hay Thụy-Hương.


Khi Thủ-Huy dạy võ, thì cả hai đều chăm chú luyện. Sau giờ luyện võ, Đoan-Nghi phải về cung sống với Thần-phi. Còn Thụy-Hương thì luôn ở cạnh Thủ-Huy. Vì Đoan-Nghi thông Kinh-dịch, nên nàng luyện nội công Âm-nhu, Mê-linh kiếm pháp rất mau. Ngược lại Thụy-Hương chỉ luyện thành Không-minh tâm pháp, cùng võ công Đông-a mà thôi.


Tất cả những tình cảm của bẩy thiếu niên đã tới tai hoàng-hậu với Thần-phi. Hai bà mẹ theo dõi rất kỹ những gì xẩy ra xung quanh bẩy đứa trẻ.


Khi mới ra Đông-cung ở, Long-Xưởng chỉ có mình Đoan-Nghi ở bên cạnh. Đi đâu, làm gì, hai anh em cũng ở cạnh nhau. Hoàng-hậu với Thần-phi Bùi Chiêu-Dương gọi đùa hai anh em là Long-phụng hành.


Đến lúc Trang-Hòa xuất hiện, hai bà đổi Long-phụng hành thành Tam-anh hành. Rồi Tăng Khoa được phong làm thái-tử nghĩa đệ. Thụy-Hương từ Đăng-châu về sống trong Đông-cung được phong công chúa nghĩa muội, Tam-anh hành thành Ngũ-tiên hành.


Cuối cùng Thủ-Huy, Như-Như nhập Đông-cung, Ngũ-tiên hành thành Thất-tiên hành. Quan Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền xin đổi là Đại-Việt Thất-tiên.


Thần-phi thường bầy tỏ mối ưu tư rằng : Long-Xưởng là một thiếu niên kỳ vỹ, chí lớn bằng trời đất, Thất-tiên đều là những người trẻ xuất chúng. Nhưng, tất cả đều đã lớn, trai gái đi đâu cũng có nhau, e rằng khó giữ nổi lễ giáo. Hoàng-hậu nào phải không biết điều đó. Bà dẫn chứng : Thời đức Thái-tổ, Khai-Quốc vương từng cho phò-mã Thân Thiệu-Thái gần công chúa Bình-Dương, phò mã Lê Thuận-Tông gần công chúa Kim-Thành, phò mã Hà Thiện-Lãm gần công chúa Trường-Ninh. Chính nhờ gần nhau, hiểu nhau, chung lo quốc sự với nhau, mà sáu vị trở thành sáu cây cột bảo vệ Bắc-cương.


Hoàng-hậu cùng Thần-phi bàn với nhau : Long-Xưởng không ưa chế độ đa thê, vương định một mai lên ngôi vua, sẽ ban chỉ lập chế độ một vợ, một chồng ; vậy cần phải tuyển một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn cho Long-Xưởng. Hai vị đồng ý chọn Trang-Hòa cháu Thần-phi. Tăng Khoa với Như-Như thì gần như duyên số đã an bài. Hai vị không cần quan tâm. Trong khi đó Đoan-Nghi với Thụy-Hương luôn sát bên Thủ-Huy. Hai thiếu nữ bắt đầu tranh đấu âm thầm, mà nào Hoàng-hậu, Thần-phi, Long-Xưởng có nhận ra !


Tuy tuổi Thủ-Huy còn nhỏ, được phong hầu, mà triều đình không ai ghen tỵ, vì công của hầu quá lớn, võ công cao cường, văn tài xuất chúng. Hầu được ông nội dạy dỗ rất kỹ về đạo lý tộc Việt, về lịch sử Hoa-Việt, về võ đạo. Từø khi kết nghĩa với Long-Xưởng, hầu trực tiếp cùng nghĩa huynh luận bàn về quốc sự, hóa cho nên hầu có kiến thức bằng người lớn hơn hầu hàng chục tuổi. Sau khi Long-Xưởng với hầu dùng Thất-tiên làm nỗ lực chính, được các đại môn phái tiếp sức, dẹp được cái loạn ngoại xâm do triều đình nhà Tống chủ mưu, qua mật sứ . Hầu trở thành già dặên hơn. Trong triều, ngoài dân đều gọi Long-Xưởng là Khai-Quốc vương tái sinh, Thủ-Huy là Kinh-Nam vương giáng thế.


Điều mà Long-Xưởng yên tâm nhất là ba người em ruột Long-Minh, Long-Đức, Long-Hòa hết sức hiếu thảo với anh. Bất cứ vương nói gì, bàn gì, ba em đều nhất nhất tuân thủ. Ngược lại Long-Xưởng cực kỳ yêu thương ba em. Vương đặt ra một lệ : Cứ mỗi khi thiết Đông-cung triều xong, bốn anh em lại ngồi ăn với nhau một bữa cơm rồi cùng bàn luận những việc nào cần cải cách làm cho dân hạnh phúc.


Dẹp loạn thành công, Long-Xưởng chưa kịp vui, thì mối lo âu đã tới : Đoan-Nghi trúng độc, mê mê, tỉnh tỉnh. Một mặt vương khẩn khoản lưu Lê Thúc-Cẩn ở lại Thăng-long, một mặt vương xin phép Thần-phi đem Đoan-Nghi về Đông-cung, để tiện săn sóc. Lê Thúc-Cẩn đã thử hết các phương pháp trị liệu, nào dùng châm cứu, nào dùng thuốc trục độc, nào dùng nội công thượng thừa. Nhưng bệnh Đoan-Nghi chỉ thuyên giảm mà không khỏi. Khi thì cơ thể nàng nóng bỏng, mồ hôi vã ra như tắm. Khi thì lại giá lạnh, khiến nàng rét run. Sau mười ngày điều trị thì tình trạng nóng, lạnh không còn nữa, nhưng Đoan-Nghi vẫn khi mê, khi tỉnh. Hơn nửa tháng sau, bệnh tình không thay đổi gì. Thủ-Huy hỏi :


- Thưa sư bá, cháu nghe nói Không-minh tâm pháp phát xuất từ Vô-ngã tướng Thiền-công. Khi luyện thành, thì trăm thứ độc không thể nhập vào người. Thế sao công chúa hút chân khí của Tô-lịch nhị tiên mà lại bị mê man ? - Này cháu, giữa việc độc tố không thể xâm nhập cơ thể với việc tự hút độc tố khác nhau rất xa.


- Cháu hiểu rồi. Thiền-công là người đầy tớ trung thành. Tỷ như trong khi công chúa giao đấu mà đối phương tung độc chiêu, ám khí có độc, thì Thiền-công tòng tâm bảo vệ chủ. Còn khi công chúa hút vào, thì Thiền-công lại tuân lệnh chủ tòng tâm hút rất nhanh, phân phối vào cơ thể rất nhanh. Nhưng sao bọn Trường-bạch hút thì không việc gì ?


- Vì chúng có phương pháp quy liễm độc tố, hơn nữa khi luyện, chúng hấp thụ dần dần, nên không đến nỗi mê mê, tỉnh tỉnh. Cháu nên biết rằng bất cứ nội công nào thì cũng phải vận khí. Mà khí thì do phế đưa vào cơ thể. Khi phế bị trở ngại, thì không còn nội công nào có thể phản ứng nữa. Lúc bọn Trường-bạch luyện công, thì chúng luyện thành bốn loại độc kia trước. Cuối cùng mới luyện nọc rết. Nên không bị mê man.


- À thì ra thế. Quả Đoan-Nghi hô hấp đang gặp khó khăn. Thế tại sao bọn Trường-bạch phải hấp nọc rết vào phế cuối cùng ?


- Cháu không hiểu cũng phải, để sư bá giảng cho.


Ông nói thực chậm :


- Chân-khí con người ta được cấu tạo bởi Tiên-thiên khí, và Hậu-thiên khí. Tiên-thiên khí là bào thai mới sinh ra. Khởi đầu con người là tinh khí của người cha, như hạt giống gieo vào người mẹ. Tinh-khí hấp thụ nguyên khí của người mẹ, thành Tiên-thiên khí. Hậu-thiên khí gồm có Thiên-khí và Địa-khí. Thiên-khí là khí trời. Địa-khí là đồ ăn thức uống. Bất cứ vì lý do gì, mà một trong bốn loại khí bị hỗn loạn, bị khánh kiệt, đều gây cho chân khí vô năng.


- Cháu hiểu.


- Công chúa Đoan-Nghi hấp tất cả độc khí Huyền-âm của Tô-lịch nhị tiên. Đúng ra với Không-minh tâm pháp, xuất từ Vô-ngã tướng Thiền-công dù nàng trúng độc gì chăng nữa, trong khi mê man, chân khí tự phản ứng chống trả, thì chỉ trong một hai giờ là tỉnh. Tỉnh chứ không khỏi. Ngặt vì Huyền-âm độc bao gồm nọc của năm thứ côn trùng. Năm thứ nọc là rắn, rết, nhện, tằm, bọ cạp . Nọc rắn nhập tâm, tâm tàng thần, chủ thần chí, chủ huyết. Khi tâm bị trúng nọc độc, thì mê mê tỉnh tỉnh. Nọc rết nhập phế , phế tàng phách, chủ hô hấp, chủ khí. Khi phế bị trúng nọc rết thì phách bị tán, công năng luân lưu khí bị mất, nên Vô-ngã tướng Thiền-công hóa ra vô dụng.


Thủ-Huy la lên :


- Nếu như có cách nào trục hết nọc rết trong phế, thì tự nhiên Đoan-Nghi thở hít bình thường. Chỉ hơn giờ sau, Vô-ngã tướng Thiền-công tự phản ứng, thì công chúa sẽ tỉnh. Biết đâu chẳng trục hết các nọc khác ra khỏi cơ thể ?


Thúc-Cẩn bật cười :


- Không hẳn vậy. Nếu như hút hết nọc rết ra, thì công chúa chỉ tỉnh dậy, rồi Vô-ngã tướng Thiền-công phản ứng, thì chỉ không chết mà thôi. Này cháu ! Nọc nhện nhập tỳ. Tỳ tàng ý, chủ lưu thông huyết. Nọc nhện nhập tỳ làm cho Đoan-Nghi không còn suy tư được nữa. Can tàng hồn, chủ cân. Khi nọc bọ cạp nhập can, làm cho hồn bay phơi phới, gân vô lực. Thận tàng chí, chủ cốt. Khi nọc tằm nhập thận làm cho mất hết ý chí, xương cốt vô lực.


Sau hơn tháng điều trị, bệnh của Đoan-Nghi vẫn không thuyên giảm. Nam-phương thần y Lê Thúc-Cẩn cáo từ Long-Xưởng:


- Con người ta sống chết có mệnh. Tuy lão phu đã dùng hết khả năng, nhưng chỉ kéo dài mạng sống của công chúa mà thôi. Công chúa đã chống được với sức công phá của ngũ độc quá 100 ngày, thì có thể thoát khỏi cái chết. Thoát chết, không có nghĩa là khỏi. Vậy lão phu xin để lại ba loại thuốc khử độc cực mạnh, lão phu có một nữ đệ tử là Trần-thị Phương-Thanh, làm ngự y cho hoàng-hậu. Phương-Thanh sẽ tiếp tục cho công chúa uống thuốc khử độc. Biết đâu...


Long-Xưởng, Thủ-Huy, tiễn Thúc-Cẩn đến cửa Quảng-phúc thì xin bái biệt :


- Xin tạm biệt tiên sinh ở đây. Non xanh không bao giờ hết củi, sông sâu không bao giờ hết nước. Xưởng này mong rằng còn có dịp tái ngộ, được tiên sinh dạy dỗ cho những điều hữu ích.


Thủ-Huy thấy dường như Thúc-Cẩn còn dấu điều cơ mật gì, mà ông không muốn nói với Long-Xưởng. Lấy lý Thúc-Cẩn là bạn thân của bố, Thủ-Huy xin được tiễn ông một đoạn đường nữa.


Hai người ruổi ngựa song song, qua chùa Diên-phúc (tức chùa Một-cột. Thời bấy giờ, cửa Quảng-phúc của Hoàng-thành quay ra hướng Tây, nơi chùa Một-cột tọa lạc). Thủ-Huy hỏi :


- Thưa sư bá, cháu đọc trong bộ Lĩnh-Nam dật sử, nói rằng : Khi Bắc-bình vương Đào Kỳ bị Mao Đông-Các đánh hai Huyền-âm chưởng, ngũ độc hành hạ, vương đau đớn cực kỳ, không thuốc gì trị được. Sau sư đệ của vương là Sún Cao đã dùng phương pháp hấp thụ độc chất, hút hết chất độc trong người vương. Nhờ thế vương thoát chết, ngược lại Sún Cao chết. Phương pháp ấy hút như thế nào ?


- Không có gì lạ đâu. Sún Cao dùng Tĩnh-huyệt của sáu kinh dương, để lên Du-huyệt của sáu kinh âm, rồi vận khí hút ra. Còn cách vận công hút độc thì hiện nay chỉ bọn Mao Khiêm là biết mà thôi.


Thủ-Huy được học rất kỹ về Kinh-lạc, Thập-nhị (mười hai), chính kinh, Kỳ-kinh bát mạch, vị trí các huyệt đạo, áp dụng luyện khí công, điểm huyệt. Còn về y học thì hầu mù tịt. Hầu hỏi :


- Thưa sư bá, tại sao lại dùng Tĩnh-huyệt, mà hút tại Du-huyệt.


- Thế này ! Mỗi kinh có một Tĩnh-huyệt. Tĩnh-huyệt là những huyệt mà kinh khí nông nhất. Vị trí của nó nằm ở đầu ngón chân, ngón tay. Duy Tĩnh-huyệt của Túc Thiếu-âm thận kinh thì nằm ở gan bàn chân. Còn Du-huyệt là nơi mà kinh khí đọng lại, thông thẳng với tạng phủ. Y kinh nói « Sở xuất vi Tĩnh, sở trú vi du » nghĩa là nơi kinh khí bắt đầu thu nhận, phát xuất là Tĩnh. Nơi mà kinh khí lưu trú lại là Du huyệt.


- Cháu hiểu rồi. Xuất cũng có nghĩa là khởi đầu. Vì vậy dùng Tĩnh-huyệt án lên Du-huyệt thì mới hút hết độc chất toàn kinh với tạng phủ. Bây giờ trở lại với bệnh trạng Đoan-Nghi, không lẽ chúng ta đành bó tay trước cái chết của Đoan-Nghi sao ?


- Cái phương pháp hấp thụ độc chất mà Sún Cao dùng, nguyên là của bọn Trường-bạch dùng để hút độc tố luyện công. Phương pháp đó cũng không khác Qui pháp âm dương của phái Đông-a, Thiền-pháp Vô-ngã tướng của phái Tản-viên, Không-minh tâm pháp của phái Mê-linh. Nếu dùng đến những phương pháp đó, hút độc cứu Đoan-Nghi, thành công thì ta không chắc cho lắm. Khi không chắc thành công, mà làm chết một người nữa, thì thực là vô ích. Vì vậy ta không bàn đến. Người nào hút nọc cứu Đoan-Nghi, không có cách gì cứu nổi. Đúng 49 ngày thì chết.


Từ biệt Thúc-Cẩn, Thủ-Huy trở về Đông-cung. Trong khi đi đường hầu nghĩ :


- Trước kia, ma đầu Đinh Kiếm-Thương từng dậy Linh-Nhân hoàng thái hậu luyện Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Ngài dùng ba kinh dương ở tay hấp thụ 28 độc tố khác nhau. Sau đó y dạy ngài cách quy liễm độc dược vào cơ thể. Ngài đau đớn cùng cực, lăn lộn . Y dạy ngài cách vận công chống đau. Sau hai giờ thì cơn đau hết. Cứ như thế trong 49 ngày thì không còn đau đớn nữa. Vậy tại sao ta không chiếu mật công Linh-Nhân hoàng thái hậu chép trong áo hồ cừu, thử hút độc tố trên người Đoan-Nghi, rồi vận công quy liễm thành nội công chủa mình? Biết đâu phương pháp hút độc của Hồng-thiết giáo lại chẳng hợp với phương pháp của phái Trường-bạch ?


Trong lòng hầu như mở ra một chân trời mới, hy vọng bệnh của Đoan-Nghi có thể trị được. Hầu vội vào thăm Đoan-Nghi. Quanh Đoan-Nghi, có Hoàng-hậu, Thần-phi, Long-Xưởng, Trang-Hòa. Mắt Đoan-Nghi vẫn nhắm nghiền, nàng nói trong cơn mê :


- Mẹ ơi ! Con đau quá. Oái nhị ca Thủ-Huy ơi, có mấy nghìn con rắn nó cắn muội. Cứu muội với.


Thủ-Huy quên mất rằng nam nữ thụ thụ bất tương thân, trước mặt hầu là một cô công chúa ngàn vàng. Hầu nắm lấy tay Đoan-Nghi :


- Đoan-Nghi, Thủ-Huy đây !


Đoan-Nghi thở hổn hển :


- Nhị ca ơi ! Nhị ca hứa rằng, sau khi giúp đại ca lập lại chính thống, nhị ca sẽ dẫn muội đi Thiên-trường thăm tháp Phổ-minh, nhị ca sẽ đãi muội ăn chuối hương, ăn rạm rang, ăn canh rau đay nấu cua đồng. Có đúng vậy không ?


Thủ-Huy cảm động :


- Nhất định huynh sẽ dẫn muội đi. Huynh không bao giờ quên lời hứa đâu.


- Nhị ca ơi ! Tại sao nhị ca đã có muội rồi, mà nhị ca còn tử tế với Thụy-Hương như vậy ? Nhị ca đã thề rằng trọn đời nhị ca chỉ biết có muội thôi. Nhị ca sẽ học theo Quốc-phụ Khai-Quốc vương, cả đời vương, vương chỉ sủng ái một mình vương phi Thanh-Mai. Thế mà...thế mà nhị ca lại ngồi nghe Thụy-Hương hát, nhị ca ví Thụy-Hương đẹp không thua gì Đào Hà-Thanh, nàng hầu của tổ Tự-An xưa !


Mỗi lời Đoan-Nghi nói, như một bát nước nóng dội vào người Thủ-Huy, khiến người hầu nóng bừng lên. Hầu muốn Đoan-Nghi đừng nói nữa, nhưng nàng vẫn nói trong cơn mê sảng :


- Nhị ca ơi ! Nhị ca thề với muội rằng : « Sông Hồng có thể cạn, núi Tản có thể mòn, chứ không bao giờ chúng ta có thể xa nhau ». Nhị ca còn nói : « Anh chỉ là một thằng bé quê mùa, được làm quen với một cô công chúa đẹp hơn Hằng-Nga, thì có lẽ anh đã tu đến mười tám kiếp rồi. Anh chỉ sợ thái-hậu không bằng lòng cho chúng ta gần nhau thôi. Nhưng, chúng ta đã hứa với trọn đời bên nhau, thìø dù thái-hậu có xẻo từng miếng thịt của anh, anh cũng cam tâm ». Thế rồi nhị ca làm thơ tặng muội : « Dưới khóm mẫu đơn đành bỏ mạng. Chết làm quỷ sứ cũng cam tâm ». Vậy mà khi Thụy-Hương làm mứt hạt dẻ tặng nhị ca. Nhị cai vui vẻ khen rằng : « Hạt dẻ do Hương muội làm ngon thực.Ví dù Hương muội cho anh ăn thuốc độc, anh cũng ăn ». Rồi nhị ca còn cười với nó, hai con mắt nhị ca có đuôi, tình tứ với nó như vậy mà nhị ca bảo chỉ biết có muội sao ? Nhị ca có biết rằng lúc ấy muội đau đớn đứt ra từng khúc ruột không ?


Những lời chân thực của Đoan-Nghi trong cơn mê sảng đã nói lên một sự việc quan trọng : Đoan-Nghi đã yêu Thủ-Huy, nhưng cạnh Thủ-Huy còn có Thụy-Hương. Thần-phi nhìn Long-Xưởng. Long-Xưởng nhìn Thủ-Huy, làm hầu luống cuống. Hầu lấy can đảm nói :


- Công-chúa ! Những lời Huy nói với công chúa, phát từ tâm can, không thể thay đổi, không một chút dối trá. Nếu như có một phần giả dối, thì Huy sẽ như con dòi, con bọ.


Chợt nhớ đến những lời giảng của Thúc-Cẩn, Thủ-Huy lấy cuốn võ phổ, mà hầu chép từ cái áo hồ cừu của Linh-Nhân hoàng thài hậu ra đọc. Đoạn chép cách hấp thụ độc tố của Hồng-thiết giáo như sau :


« ... Bất cứ độc chất gì, cứ bỏ lên bàn tay . Hai tay xoa vào nhau. Hấp khí, dẫn khí từ hai bàn tay đưa lên cùi chỏ, vai, chuyển qua lưng, đưa xuống hai chân... »


Hầu suy nghĩ :


- Đoạn này hai ma đầu Mã-Mặc, Lệ-Anh viết quá đơn sơ. Không có gì lạ cả.


Hầu đọc xuống dưới, Nhật-Hồ lão nhân chú giải :


« ... Hai bàn tay ngâm vào nước chứa độc tố. Dùng ý dẫn khí từ các huyệt Thương-dương, Quan-xung, Thiếu-trạch, đưa lên vai, tới huyệt Đại-trùy. Từ huyệt Đại-trùy dẫn khí vào các kinh Bàng-quang, Vị, Đởm, rồi đưa xuống chân. Chuyển khí bằng các lạc mạch, đưa sang ba kinh Can, Tỳ, Thận, rồi dẫn ngược lên Hạ-đơn-điền. Từ Hạ-đơn-điền, phân tán đi khắp cơ thể... »

Chương trước | Chương sau

↑↑
Tru tiên - Tiêu Đỉnh

Tru tiên - Tiêu Đỉnh

Giới thiệu: "Tru Tiên " là tiểu thuyết huyễn tưởng thuộc thể loại tiên hiệp của

09-07-2016 258 chương
Liên Thành quyết - Kim Dung

Liên Thành quyết - Kim Dung

Giới thiệu: Liên thành quyết là câu chuyện kể về chàng trai Địch Vân thật thà,

08-07-2016 49 chương
Lộc Đỉnh Ký - Kim Dung

Lộc Đỉnh Ký - Kim Dung

Giới thiệu: Lộc Đỉnh Ký là bộ truyện tranh hành động nói về một cậu bé sống

09-07-2016 248 chương
Âm công - Cổ Long

Âm công - Cổ Long

Lời tựa: Bạch Bất Phục, người con hiếu thảo, lấy việc "đổi của chôn người"

12-07-2016 1 chương
Một thời Yahoo

Một thời Yahoo

Nhớ yahoo, nhớ cả một chặng đường đời của mình gắn với nó... *** 1. Nhớ nhất

23-06-2016
Phải chăng tình đầu...

Phải chăng tình đầu...

Chim non ơi, mày có mỏi cánh không? Hay mày đang tự do, vui vẻ mà quên mất cả việc mệt

25-06-2016
Tôi, Em và Lão

Tôi, Em và Lão

Thế là đã gần một trăm ngày sau cái chết của lão, một cái chết khá đột ngột. Khi

01-07-2016
Bạch Ngọc

Bạch Ngọc

Một người bạn trẻ đã kể tôi nghe câu chuyện này. Chuyện xảy ra với chính anh ta,

24-06-2016

Polaroid