- Chị Tiêu Vi, chị có thấy hình tròn trên trán Từ Văn Uyên giống một hình xãm không?
bạn đang xem “Thiên Văn ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!Tôi sững ngưởi, lục lại trong trí nhớ, đúng là hình tròn trên trán ông ấy thật khác thường:
- Cũng khá giống, nhưng đó là vết giác hơi mà.
Tiểu Đường liếc nhìn sang tôi, lắc đầu, nói:
- Chị không hiểu đâu, đó là một loại xăm vô cùng tinh xảo nhưng... - Nói đến đây, cô bé vươn vai ngáp ngủ, chuyển ngay sang chủ đề khác - Em buồn ngủ quá, chị em mình đi ngủ thôi. – Nói xong lập tức đứng dậy đi thẳng ra cửa.
Tôi quá quen với cách nói chuyện lấp lửng cùa cô bé nên cũng không cố gặng hỏi. Nhìn theo dáng hình cô bé khi bước ra khỏi phòng, tay vẫn không rời chiếc kim, tôi chợt nhận ra, ba cô gái trẻ Sở Khinh Lan, Đường Nhã Kỳ, Tống Nguyệt Uyên đều có tên rất lạ, dáng người nhỏ nhắn và còn có một điểm tương đồng kỳ dị, đó ỉà cả ba đều có tài năng thiên bẩm liên quan đến kim châm, liệu họ có phải chị em một nhà?
Bỗng nhiên Tiểu Đường dừng bước, hai bàn tay nắm chặt, đầu không hề quay lại chỉ bình thản nói:
- Nữ nhân tâm, hải đế châm (lòng dạ đàn bà như mò kim đáy bể)... Chị Tiêu Vi, chị cứ suy nghĩ đi!
Nói rồi, cô bé đẩy cửa bước ra.
Sáng sớm ngày thứ tư ở đây, chúng tôi còn chưa kịp ăn sáng thì Chung Hồng Đạt và Lão Mục đã tới mang theo một bọc da màu đen. Chung Hồng Đạt giở bọc da đó ra, đặt hai tấm Long Bản lên bàn, cả hai đều có màu đỏ thẫm, bóng láng, các đường vân trên đó giống nhau tới mức không thể tìm ra điểm khác biệt dù chỉ là một chấm nhỏ.
Nét biểu cảm trên mặt Chung Hồng Đạt rất kỳ lạ, ông ngồi trên ghế sô-pha, lặng im suy nghĩ một hồi lâu, rồi mới cất lời:
- Rõ ràng hai tấm Long Bản này là cùng một khuôn.
Chung Hồng Đạt tiếp tục giảng giải với chúng tôi, qua giám định của các nhà khảo cổ học cho thấy, chất liệu gỗ của hai tấm Long Bản này là giống nhau, đều bắt nguồn từ thời nhà Liêu. Chúng được làm y hệt một cách tinh xảo và chính xác tới từng mi-li-mét từ chiều dài, chiều rộng đến chiều cao. Điều đặc biệt hơn nữa là những đường vân trên bề mặt, từ vị trí cho tới độ lớn bé đều không sai lệch một li, thậm chí cả số lượng vết châm, độ nông sâu và quy luật phân bố cũng giống nhau như tạc. Chúng chính là bản sao của nhau.
Đó thực sự là một điều kỳ diệu, đến cả công nghệ hiện nay cũng khó có thể tạo ra một tác phẩm tinh tế và chuẩn xác đến như thế, vậy thì làm thế nào mà từ hàng nghìn năm trước, họ đã tạo ra tấm Long Bản với kỹ thuật cao siêu đến như thế?
Nghĩ tới nghệ thuật xăm hình trên bề mặt tấm Long Bản, tôi liền quay sang hỏi Tiểu Đường. Cô bé suy ngẫm một lát trước khi bước tới gần mặt bàn, dùng tay áo lau sạch lớp bụi bám trên đó, hai tay cầm hai chiếc kim, đầu cúi thẳng, hai mắt nhìn chằm chằm lên mặt bàn.
Chung Hồng Đạt vội đứng dậy, hỏi:
- Cô gái, cô định...
Tôi biết chắc Tiểu Đường đã nghĩ ra cách nào đó, nên lập tức kéo tay ngăn Chung Hồng Đạt lại, dùng ánh mắt ra hiệu cho ông không được làm phiền.
Tiểu Đường khẽ nheo mắt, miệng lẩm bẩm vài câu, hai tay cùng ấn mạnh xuống, một tiếng "cách!" nhẹ vang lên, hai mũi kim đã chọc xuống mặt bàn chừng vài mi-li-mét. Dừng một lát, cô bé liền rút hai mũi kim ra, rồi lặp lại quá trình đó tại vị trí tiếp theo.
Hai bàn tay Tiểu Đường chuyển động đều thoăn thoắt, cho dù là đường thẳng hay vòng cung thì mũi kim cũng đều giữ một khoảng cách nhất định và đều tăm tắp, khiến người xem không thể rời mắt.
Cứ như thế, một lúc sau, trên mặt bàn đã xuất hiện hình ảnh của hai bông hoa mai giống y hệt nhau, từ nét chấm cho tới mật độ phân bố, thảy đều không thể tìm ra sự khác biệt.
Đây là lần đầu tiên Chung Hồng Đạt nhìn thấy tài nghệ của Tiểu Đường, nên ông không thể rời mắt khỏi hai bông hoa mai trên mặt bàn, tay miết khẽ lên những cánh hoa còn miệng thi há hốc như đang được chứng kiến thứ gì kì diệu lắm. Mãi lâu sau ông mới vỗ đùi, quay sang nhìn Tiểu Đường, phấn khích nói:
- Cô gái, thì ra là như thế, như vậy thì có thể giải thích được, đây chính là kỹ thuật khắc mai bằng hai tay.
Tiểu Đường khẽ thở dài, lắc đầu nói:
- Không phải, không phải đâu, kỹ thuật của cháu còn non kém lắm, mọi người hãy chú ý quan sát mà xem.
Chúng tôi cùng cúi đầu xuống mặt bàn, quan sát lại kỹ hơn thì mới nhận ra, mặc dù hai bông hoa mai trông rất giống nhau, nhưng xét về chi tiết, bông này vẫn nhỉnh hơn bông kia một chút, cánh hoa có phần không được cân xứng, những đường vân hay độ lớn nhỏ của lỗ châm vẫn có sự khác biệt. Đặc biệt, ở vị trí những cánh hoa giao nhau, có sự lộn xộn trong thứ tự sắp xếp, khiến góc bên trong có phần không thống nhất.
Tiểu Đường kể với chúng tôi đây là kỹ thuật khắc hình bằng hai tay, nó được phân thành hai loại khác nhau: Một loại là khắc những hình dạng giống nhau, còn loại kia là khắc những hình dạng khác nhau. Nói rồi, cô bé nhấc hai cây kim lên, rồi dùng mũi kim bên tay trái quét qua một đường ngang, sau đó dùng mũi kim bên tay phải miết thành một đường dọc. Dừng trong giây lát, rồi hai tay Tiểu Đường lại thao tác cùng một lúc tạo ra những đường nét có hình dạng và vị trí khác nhau.
Chỉ một lát sau, Tiểu Đường dừng mũi kim, trên mặt bàn giờ đây lại xuất hiện hình bông hoa cúc với đầy đủ thân lá, đang đung đưa trước gió.
Thì ra mũi kim bên tay trái khắc bông hoa, còn mũi kim bên tay phải khắc thân lá, cuối cùng chụm lại tại một điểm. Phải nói đây là kỹ thuật có một không hai, khiến những người chứng kiến cũng không dám tin vào mắt mình.
Tiểu Đường quay sang giải thích, đây là nghệ thuật thiên biến vạn hóa với rất nhiều phương pháp thao tác khác nhau, nhưng vẫn phải tuân theo một quy tắc chung, đó là phải kết hợp nhuần nhuyễn và thống nhất giữa bốn yếu tố là Kim - Thế - Tâm - Vật. Cũng có nghĩa là, các đầu ngón tay, cách chuyển động mũi kim, sự ước lượng, trí tưởng tượng cùng kết cấu của vật thể luôn phải được xác định rõ ràng, luôn phải đi cùng nhau không bao giờ tách rời. Chỉ cần lơ là một trong bốn yếu tố trên thì nhất định không thể nào khắc được một hình mẫu lí tưởng.
Nói đến đây, Tiểu Đường khẽ chỉ tay lên mặt bàn, nói một cách chắc chắn rằng:
- Giả dụ hai tấm Long Bản này được xếp cạnh nhau, hai tay cháu có thể cùng thao tác một lúc, nhưng khi khắc sang mặt sau, nhất định phải lật nó lại, khiến vị trí và góc độ mũi kim chắc chắn có sự chênh lệch, nên không thể nào không có sự khác biệt giữa hai mặt, dù ít hay nhiều. Không ai có thể thực hiện được thuật khắc Xoay vòng này hoàn hảo cả.
Có chăng vẫn còn một khả năng khác, đó là treo hai tấm Long Bản này lên, phía dưới có thêm một vật hỗ trợ giữ yên vị trí, rồi người thợ xăm sẽ đi vòng quanh chúng.
Tiểu Đường bật cười rồi nói:
- Không thể nào, người xưa thường nói "lực từ dưới đất", cơ thể và mặt đất không thể tách rời, nghệ thuật xăm hình cũng thế, chân không vững thì sẽ khiến tâm thế xáo động theo.
Chúng tôi quay sang nhìn nhau, không nghĩ rằng nghệ thuật xãm hình lại có nhiều quy định chặt chẽ đến vậy. Chung Hồng Đạt vân vê cằm, nhận định:
- Từ trước đến nay ta lại nghĩ xăm hình chi đơn thuần là dùng mũi kim và mực để xăm lên da thịt.
Tiểu Đường mỉm cười:
- Cái này không hề đơn giản như chú nghĩ đâu. Đến mực để xăm hình cũng được phân ra làm rất nhiều loại, phải dựa vào đặc tính của vật cần xăm mà chọn ra loại mực phù hợp, và mỗi hình xăm lại kết hợp với một loại mũi kim khác nhau.
Nói rồi, cô bé giở bọc kim ra cho chúng tôi xem.
Bên trong bọc là rất nhiều hộp to nhỏ đủ màu sắc, Tiểu Đường lấy ra một chiếc túi màu hồng nhỏ bằng nắm tay, bên trong cắm đầy những mũi kim to nhỏ, ngắn dài khác nhau; ngoài ra trên miệng túi còn cài chặt những mũi kim màu bạc, màu vàng. Cô bé rút một mũi kim bạc, mỏng như sợi tóc từ miệng túi ra, đảo mắt một vòng, rồi bất ngờ đâm mũi kim về phía Chung Hồng Đạt, hét lớn:
- Chết này!
Chung Hồng Đạt sợ hãi kêu thất thanh, bật người ra phía sau. Tiểu Đường vội dừng lại, cười khoái chí:
- Ối giời! Cháu chỉ trêu chú chút thôi, đây là chiếc kim mà cháu yêu thích nhất đấy, cái này không dùng với chú được.
Lúc đó, tôi chỉ nghĩ Tiểu Đường đang nói đùa thật, cái kim vừa bé tí vừa ngắn ngủn, rơi xuống đất là mất luôn, thì có gì mà đặc biệt.
Nhưng sau này, khi chúng tôi vào bên trong Cổ Tháp Cẩm Châu, gặp phải rất nhiều cửa ải nguy nan, tôi mới nhận ra rằng đó là một bảo bối hiểm có.
Những lời nói của Tiểu Đường khiến tôi phải khẳng định một điều rằng hai tấm Long Bản kia nhất định không phải do cùng một nghệ nhân tạo ra, nhưng tại sao chúng lại giống nhau đến như vậy, đó vẫn là một điều bí ẩn.
Sau khi Lão Mục lau sạch mặt bàn, Chung Hồng Đạt mới mở một bọc da khác, lôi ra một ống giấy cuộn tròn rồi phủ lên mặt bàn, thì ra đó là bản thiết kế 3D của một ngọn tháp, mặt giấy đã hơi ố vàng, chứng tỏ nó đã có từ rất lâu rồi.
Chung Hồng Đạt chỉ vào tấm bản đồ, nghiêm túc nói:
- Đây là bản thiết kế cấu tạo của Cổ Tháp Cẩm Châu mà Cục An ninh Quốc gia đã phải nhờ tới sự giúp đỡ của Cục Quản lý Di sản Văn hóa Trung Quốc mới có được.
Máu tò mò nổi lên, tôi liền nói:
- Cục trưởng Chung, có phải anh muốn chúng tôi nghiên cứu ngọn tháp này?
Chung Hồng Đạt gật đầu:
- Không sai, đấy chính là ý định của tôi. Cổ Tháp Cẩm Châu được xây dựng ròng rã trong ba năm, là nơi bảo tồn những báu vật mà hoàng hậu để lại, đây cũng được coi là di sản cấp hai của quốc gia. Các chuyên gia khảo cổ và các nhà nghiên cứu đã tiến hành khảo sát tìm hiểu nó từ ngay sau ngày giải phóng, bên trong chắc không có gì, vấn đề là ở bên dưới. Tiêu Vi là người có liên quan trực tiếp nên tôi nghĩ tốt nhất là giao việc này cho cô, Lão Mục và Tiểu Đường sẽ đi cùng để hỗ trợ. Có thể tìm ra câu trả lời hay không, xem ra phải nhờ đến bản lĩnh của ba người rồi.
Tôi khẽ gật đầu, được người dày dặn kinh nghiệm như lão Mục hỗ trợ thì không còn gì tốt hơn, thế nhưng nếu đem theo cả Tiểu Đường, một cô gái ngây thơ yếu đuối đi cùng, chỉ e chúng tôi lại phải vất vả bảo vệ cho cô bé nữa. Nghĩ đến đó, tôi liền hỏi:
- Ngoài ba người chúng ta, còn ai nữa không ạ?
Chung Hồng Đạt khẽ mỉm cười, vừa cuộn bản thiết kế lại vừa nói:
- Đừng mong đợi có thêm người khác, chỉ có ba người là cô, Lão Mục và Tiểu Đường thôi. Thậm chí khi đi cũng sẽ không có sự hậu thuẫn của các đơn vị địa phương đâu, điều này là để đảm bảo thông tin không bị rò rỉ ra ngoài và giữ bí mật tuyệt đối. Chuyện này chỉ có những lãnh đạo cấp cao ở Cục An ninh Quốc gia và bốn chúng ta được biết.
Thấy tôi có vẻ lo lắng, Cục trưởng Chung liền cười vang và cố tình trêu chọc:
- Mọi người nhất định phải cẩn thật không để các di vật bị sứt mẻ hay thiếu sót gì đâu đấy, bằng không thì tôi cũng chẳng cứu được ba người khỏi tội cố tình phá hoại và đánh cắp báu vật quốc gia đâu.
Sau lần nói chuyện đó, không thấy Chung Hồng Đạt tới gặp chúng tôi nữa. Lão Mục thì bận rộn thu xếp công việc trước khi tới Cẩm Châu nên cũng không tới. Chỉ có tôi và Tiểu Đường quanh quẩn ở ngôi biệt thự, cả ngày chỉ ăn, ngủ, lên mạng rồi xem ti-vi.
Cho tới một ngày, khi tôi và Tiểu Đường đang ngồi ăn sáng thì cô bé bỗng nhiên nhắc đến Tống Nguyệt Uyên. Tiểu Đường nói rằng tôi dạo này thường xuyên bị đau nửa đầu, thử đến gặp Tống Nguyệt Uyên xem sao. Tôi biết căn bệnh này xuất phát từ thói quen thường xuyên thức khuya, để lâu sẽ có hại đến sức khỏe nên cũng muốn chữa trị cho khỏi hẳn, vì vậy đã hỏi Lão Mục địa chỉ phòng khám của Tống Nguyệt Uyên, và nhờ anh ta cử người đưa chúng tôi tới đó.
Phòng khám của Tống Nguyệt Uyên nằm trên con đường từ khu Xương Bình tới Hồi Long Quan, cách chỗ chúng tôi không xa lắm nên không cần lái xe, đi tàu điện ngầm tuyến 12 một lúc là tới, vừa để ra ngoài thay đổi không khí vừa để biết đường phố Bắc Kinh ra sao.
Hành khách trên tàu điện ngầm đông nghịt, tiếng nói chuyện, tiếng động cơ, tiếng loa phát thanh khiến cho không gian xung quanh trở nên vô cùng ồn ào hỗn loạn. Tôi và Tiểu Đường như lọt thỏm giữa đám người đông như kiến cỏ, đành cố gắng nắm chắc tay vịn, quay đầu ngắm nhìn khung cảnh bên ngoài, thỉnh thoảng quay sang nói với nhau vài câu chuyện phiếm. Hai đồng chí được Lão Mục cử đi theo vẫn đứng phía sau chúng tôi.
Khi đoàn tàu đang chầm chậm dừng lại, tiếng loa phát thanh vang lên thông báo đã tới ga Long Tắc, và chuẩn bị tới ga tiếp theo là ga Hồi Long Quan, Tiểu Đường bỗng nhiên thốt lên một tiếng, rồi với tôi một câu không đầu không đuôi:
- Chị Tiêu Vi, chị không thấy có nghĩa gì sao?
Tôi ngơ ngác quay sang, hỏi lại:
- Nghĩa gì là nghĩa gì?
Tiểu Đường hơi chau mày lại, trả lời với vẻ ngập ngừng:
- Chính là... Hồi...
Vừa nói đến đó, cánh cửa tàu tự động bật mở, hành khách dưới ga lại ùn ùn kéo lên, đẩy chúng tôi tụt hẳn vào bên trong.
Sau khi tìm được chỗ đứng thích hợp, tôi liền quay sang hỏi lại Tiểu Đường. Cô bé chỉ lặng im sau đó lại liến thoắng trả lời không có chuyện gì cả. Thế nhưng nghĩ đến sắc mặt cô bé lúc nãy, chắc chắn là đã nghĩ ra chuyện gì đó. Tôi cũng không cố gặng hỏi gì thêm, chỉ thấy rất kỳ lạ. Hồi gì nhỉ? Lẽ nào chính là Hồi Long Quan?
Sau này nghĩ lại hoàn cảnh lúc bấy giờ, tôi luôn tự trách mình sao lúc đó đầu óc lại phản ứng chậm chạp đến như thế, từ mà Tiểu Đường lỡ thốt ra chính là từ khóa vô cùng quan trọng, tôi đã quá ngờ nghệch khi bỏ qua nó.
Chúng tôi đứng thêm một lúc nữa rồi xuống ga Hồi Long Quan. Sau khi ra khỏi ga, hai chị em hỏi thăm những người đi đường thì mới biết làng Hồi Long Quan cách đây một đoạn đường khá dài nữa, nên chúng tôi quyết định bắt taxi cho nhanh.
Ngôi làng này đang được quy hoạch đổi mới nên có khá nhiều tòa nhà cao tầng mọc lên khắp nơi, duy chỉ còn một vài căn nhà mái bằng ở phía Tây Bắc là còn giữ vẻ dân dã, trong số đó có phòng khám của Tống Nguyệt Uyên.
Đó là căn nhà thấp lè tè có kết cấu như tứ hợp viện Bắc Kinh, phía bên ngoài là lớp tường gạch cũ đã nham nhở gần hết, chứng tỏ căn nhà này đã rất lâu đời, nhưng vẫn lưu giữ được những nét độc đáo của kiến trúc một thời. Cửa chính sơn đỏ đang hé mở, trên cánh cửa là hai vòng đồng to gần bằng miệng bát, sáng bóng. Phía trên là một tấm biển bằng gỗ có khắc ba chữ: Cửu Khiếu Đường.
Tiểu Đường ngẩng đầu, nheo nheo đôi mắt quan sát thật kỹ tấm biển hiệu, rồi quay đầu sang nói nhỏ với tôi:
- Cái tên này có điều gì đó rất cổ quái.
Tiểu Đường giải thích, theo thuật ngữ Đông y, cửu khiếu tức là chỉ chín lỗ trên cơ thể người gồm: Hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng, đường niệu đạo phía trước và hậu môn phía sau. Trong nghệ thuật xăm hình cũng có câu ý tương tự "Văn khắc thân hình, biến thể trước mặc", nhưng cũng có Cửu cấm, có nghĩa là không được xăm tại chín điểm này, nếu không sẽ phải nhận tai họa.
Tôi đứng như trời trồng, vô thức đưa tay lên miết theo viền môi:
- Biết như thế là phải tội, nhưng đến con ngươi cũng có thể xăm sao? Lại còn niệu đạo, hậu môn nữa... đúng là chuyện tiếu lâm.
Thấy tôi thắc mắc như vậy, Tiểu Đường chỉ cười khúc khích, rồi nói:
- Đấy là bí mật. Thôi! Chúng ta vào trong đi!
Chúng tôi đi vòng qua bức tường gạch bao xung quanh, mỗi viên gạch ghép với nhau tạo thành một bức tranh phong cảnh sinh động. Bước vào bên trong, trước mắt chúng tôi là một khoảng sân lớn vuông vức, dưới nền là những phiến đá lớn màu xanh rêu, mỗi phiến rộng chừng hai mét vuông, ngoài một lỗ sâu ở chính giữa thì không có thêm bất cứ chi tiết nào khác, khiến không gian trở nên trống trải và rộng thênh thang.
Tôi ngó nghiêng quan sát bốn phía thì phát hiện ra một điểm rất kỳ lạ, các phòng trong tứ hợp viện dù là phòng chính hay buồng nhỏ đều không có cửa sổ, tất cả cửa ra vào đều treo một tấm rèm dày màu đen, khiến không gian bên trong kín như bưng, không một tia sáng nào lọt qua.
Chúng tôi dặn hai đồng chí cảnh sát đi cùng đứng bên ngoài, chỉ có tôi và Tiểu Đường bước lên bậc thềm, đưa tay vén bức rèm vải rồi từ từ mở cánh cửa gỗ. Cánh cửa nhẹ nhàng mở ra không một tiếng động, có vẻ như tấm bản lề vừa được tra thêm dầu. Bỗng nhiên, trong bóng tối, một giọng nói yếu ớt khẽ phát ra:
- Hai người mau vào đi, bên ngoài lạnh lắm!
Giọng nói nghe rất trẻ trung, ước chừng người này chỉ trên dưới hai mươi tuổi.
"Soạt!" khoảng không tối om trước mắt bỗng vụt sáng, không gian bên trong khá rộng, có một cô gái đang ngồi trong góc khuất cạnh chiếc bàn trà, trên mặt bàn là ngọn nến đang cháy, cô gái đang hướng mặt về phía cửa ra vào. Dưới ánh nến phập phồng, khuôn mặt của Tống Nguyệt Uyên trắng bệch, lặng yên bất động, một tay vẩy mạnh que diêm để tắt lửa.
Tôi khẽ chau mày, trong lòng không ngừng thắc mắc, liệu cô gái này có bình thường không, đang giữa ban ngày mà lại ngồi một mình trong căn phòng tối om, lại còn đốt ngọn nến, thật đúng là khác người.
Chương trước | Chương sau