XtGem Forum catalog
Mật Mã Tây Tạng

Mật Mã Tây Tạng


Tác giả:
Đăng ngày: 19-07-2016
Số chương: 233
5 sao 5 / 5 ( 130 đánh giá )

Mật Mã Tây Tạng - Tập 3 - Chương 16

↓↓
Trương Lập nói: "Chốt bẫy ở dưới sàn nhà, giẫm lên là khởi động cơ quan. Những ký hiệu này đều là Phạn văn, chỉ tiếc là chúng ta không đọc được."

bạn đang xem “Mật Mã Tây Tạng ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!

Nhạc Dương nói: "Ừm, hai bên tường có rất nhiều rãnh, chắc là tên bắn từ tường đá mfa không trúng ai sẽ rơi ngược vào vách tường bên kia."

Trương Lập lại ngẩng đầu nói: "Trần nhà cao thế này, chắc là không có thứ gì rơi từ bên trên xuống đâu nhỉ."

Nhạc Dương nói: "Gian phòng này nhiều lắm cũng chẳng hơn được hai chục mét, có cơ quan thì xông qua cũng được mà."

Trác Mộc Cường Ba nói: "Vậy được, chúng ta thử xem sao." Trác Mộc Cường Ba đứng phía trước tấm đá lát sàn, xem những chữ Phạn béo gầy bất nhất, trông giống những con sâu vặn vẹo, tức thời cũng không biết nên giẫm vào viên nào, thứ đưa một chân lên trước dò, thấy không có gì khác biệt, mới giậm hẳn xuống, sau đó bước đi như bình thường. Trương Lập, Nhạc Dương thì bước theo sau gã, cũng giẫm lên những viên đá gã đã giẫm. Đa Cát chẳng hiểu mô tê gì, cũng bị yêu cầu làm như vậy.

Bốn người dò dẫm từng bước một, đến cánh cửa ở phía bên kia lối đi, chỉ thấy hình dạng những viên đá lát sàn trong căn phòng hình tròn này không theo một quy tắc nào cả, hoàn toàn khác với hình cành cây ở phía bên này, song từng viên vẫn đều có khắc Phạn văn.

Trác Mộc Cường Ba bước qua cánh cửa chữ Vạn, thở phào nhẹ nhõm nói: "Không hiểu tại may mắn hay vì cơ quan đã mất tác dụng rồi nữa."

Trương Lập lên tiếng: "Ừm, cơ quan cần động lực, xem ra Đa Cát xông vào lần trước đã làm tiêu hao hết động lực của cơ quan này rồi."

Vừa đi qua cánh cửa, Đa Cát đã cho là không còn nguy hiểm gì nữa, liền nhảy ra giữa căn phòng hình tròn, chỉ vào cái mõ trên bệ cao: "Chính là ở chỗ này, tôi lấy Trích Huyết hồng thạch ở đây này." Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba muốn ngăn anh ta lại nhưng đã muộn, cũng may mà anh ta không hề có hành động gì bất thường.

Trác Mộc Cường Ba giẫm giẫm chân, đá lát sàn bên dưới rất chắc chắn, gã lại bước thêm hai bước nữa, gắng sức men theo những nơi Đa Cát vừa nhảy qua mà tiến lên. Trương Lập và Nhạc Dương cũng thầm nghĩ đá lát sàn ở đây hình dáng như thế này, chắc chắn mười mươi là có vấn đề. Mọi người lên trên bệ cao, giờ mới nhìn rõ toàn cảnh gian phòng, quả nhiên là có hình chiếc hồ lô, chính giữa mái vòm có một lỗ nhỏ, bên trên lại xây một hình cầu lên trên, phần đỉnh hình cầu bên trên nhỏ dần, không nhìn rõ là có lỗ hay không. Những chữ Đa Cát nói, chính là khắc trên tường của hình cầu nhỏ ở trên, ánh sáng mờ mịt, cộng với chữ viết trên đó quá nhỏ, khó mà nhìn cho rõ được. Trác Mộc Cường Ba lấy ống nhòm điện tử ra, Nhạc Dương giơ đèn pha lên, ngửa đầu quan sát, lẩm bẩm nói: "Còn đỡ, là tiếng Tạng cổ."

Trương Lập nói: "Viết gì vậy?"

Trác Mộc Cường Ba lẩm bẩm: "Quỷ… quỷ vu kim… ngưu, hồng… Đại hồng… liên diệu, Văn… Thù… Bồ Tát, cầm… cầm đồng thủy trước ngực… mở… mở ra Vô Lượng Minh? Đây là ý gì? Hai cậu xem thử xem."

Trương Lập đón lấy chiếc ống nhòm, lẩm bẩm nói: "Dịch theo chữ thì chắc là như vậy đấy, không sai đâu."

Nhạc Dương đưa đèn pha cho Trác Mộc Cường Ba, nói: "Để tôi xem nào." Anh chàng nhìn một lúc lâu, cuối cùng cũng chẳng nhìn ra được manh mối nào, các chữ thì đều đều biết hết, nhưng ghép lại thì lại không hiểu là ý gì. Đa Cát hoàn toàn không hay biết gì về thứ sản phẩm công nghệ hiện đại này, nghe nói dùng nó có thể nhìn thấy những nơi xa mà mắt thường không thấy được, liền lấy làm hứng thú. Nhạc Dương bèn chỉ cho anh ta cách sử dụng ống nhòm. Đa Cát mừng rõ như đứa trẻ được món đồ chơi mới vậy.

Trác Mộc Cường Ba thở dài nói: "Chà, xem ra chúng ta không thể hiểu được ý nghĩa của những dòng này rồi, đành đợi nhóm của giáo sư Phương Tân đến coi sao vậy."

Lời còn chưa dứt, đã nghe giọng giáo sư Phương Tân vang lên bên ngoài: "Ồ? Đây là Phật gì vậy? Đại sư Á La, đại sư lại đây mà xem này."

Trác Mộc Cường Ba kêu lên: "Thầy giáo, thầy giáo, chúng tôi ở trong đây, mọi người vào đi, cẩn thận cơ quan dưới nền nhà, chúng tôi bước vào trên phiến đá thứ hai, thứ năm…" Mấy người trong nhóm của giáo sư Phương Tân liền theo lời đi qua gian sảnh mé bên, bước vào gian phòng hình tròn, Trác Mộc Cường Ba nói: "Thầy giáo, thầy xem trên kia viết những gì?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Đợi chút đã, để tôi chụp lại những chữ Phạn trên nền nhà nước. Vừa nãy vội quá, còn bao nhiêu thứ vẫn chưa kịp ghi lại."

Trương Lập lên tiếng nhắc nhở: "Cô Mẫn Mẫn, đừng giẫm lên đó vừa nãy chúng tôi chưa đi qua chỗ ấy đâu."

Lạt ma Á La vừa vào đã hỏi ngay: "Đa Cát đâu, Đa Cát ở đâu?"

Đa Cát đứng sau lưng Nhạc Dương lách người bước ra, nhìn lạt ma Á La hỏi: "Ông là?"

Đường Mẫn nói: "Hả, anh ấy chính là Đa Cát?"

Nhạc Dương nói: "Đa Cát, trả tôi cái ống nhòm…"

Nhất thời mỗi người góp một câu, gian phòng nhỏ liền ầm ĩ hét cả lên.

Giáo sư Phương Tân cùng mấy người khác cũng lên bệ hình tròn. Trác Mộc Cường Ba lấy viên hồng ngọc của Đa Cát đưa cho ông xem, đồng thời chỉ lên không gian hình cầu phía trên, cho ông biết là có chữ. Đường Mẫn đón chiếc ống nhòm từ tay Nhạc Dương, bắt đầu quan sát. Lạt ma Á La thì vẫn không ngừng hỏi han Đa Cát về các tượng Phật.

Giáo sư Phương Tân quan sát viên ngọc giây lát, đoạn nói: "Thủ công tương đối tinh xảo, đây là hồng ngọc loại thượng hạng, khẳng định là có tác dụng rất quan trọng trong lễ tế của cổ nhân." Kế đó, ông lại điều chỉnh tiêu cự của ống kính máy quay, nhìn những chữ Tạng cổ phía trên, đoạn lẩm bẩm: "Tôi chỉ biết Văn Thù Bồ Tát là một vị Bồ Tát tương đối quan trọng trong Phật giáo, còn những thứ khác chỉ e là chỉ có đại sư Á La mới giải thích được."

Lạt ma Á La đang hỏi: "Vậy các tượng thần Phật ở đây đều do tổ tiên của cậu tạc nên, hay đã có từ trước rồi, tổ tiên của cậu chỉ phụ trách bảo vệ nơi đây thôi?" thì giáo sư Phương Tân đã giơ màn hình máy tính ra, chỉ những chữ bên trên.

Đa Cát nói: "Theo như các trưởng lão nói, thì chúng tôi chỉ phụ trách bảo vệ nơi này thôi."

Lạt ma Á La gật gật đầu, sau đó ngoảnh sang nhìn màn hình: "Ừm? Cái này, là ý gì đây?"

Giáo sư Phương Tân ngẩng đầu lên nhìn đỉnh vòm, sau đó lại nhìn cái mõ, bảo Đa Cát để viên hồng ngọc về vị trí ban đầu, quan sát một lượt, sau đó nói: "Tôi hiểu rồi, chắc là dựa trên nguyên lý chiết xạ của tia sáng đây." Ông chỉ lên đỉnh đầu nói, "Miệng hồ lô này chính là nơi để lấy ánh sáng, thực ra tổ tiên người Tạng chúng ta đã nghiên cứu âm thanh, ánh sáng, hình ảnh đạt tới trình độ tương đối cao, trong đó Vô Lượng Phật Bích chính là một ví dụ rất điển hình."

Vô Lượng Phật Bích thì Trác Mộc Cường Ba đã nghe nói đến, chính là một vách đá lớn trơn nhẵn như gương, nghe nói mỗi khi có sấm chớp sẽ xuất hiện pháp thân của Phật tổ, khiến vô số tín đồ quỳ lạy cúng bái, cho là thánh tích. Nhưng Vô Lượng Phật Bích và viên hồng ngọc ở đây có quan hệ gì chứ? Lại nghe lạt ma Á La nói tiếp: "Thực ra, nội dung khắc trên tường, chắc là một phương pháp để xuất hiện hình ảnh. Quỷ ở đây không phải quỷ quái theo nghĩa truyền thống, mà là một trong Nhị thập bát tú. Kim ngưu là thời gian, ý tức là vào thời gian "kim ngưu", sao Quỷ sẽ ở chính giữa phá trên Cánh cửa Sinh mệnh; Đại hồng liên diệu, rất rõ ràng chính là ánh sáng sẽ chiết xạ qua viên hồng ngọc này, Đại hồng liên đồng thời cũng chính là thánh vật ở nơi sâu thẳm nhất trong Bát Đại Băng Đông địa ngục, mấy thứ này đều không quan trọng. Ừm… Văn Thù Bồ Tát… phải rồi, mọi người nhìn xuống sàn nhà xem, có mấy nơi hình dáng không theo quy tắc, mà có hình lá sen."

Mấy người bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn theo hướng chỉ của lạt ma Á La, quả nhiên, không chỉ một chỗ, dưới đất có tới mấy nơi được cố ý làm thành hình lá sen, đếm thì tổng cộng có tám lá sen, đều đặn vây quanh bệ tròn ở giữa. Lạt ma Á La nói: "Đây là Bát Diệp Lão Sư, lần lượt tượng trưng cho tám phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, còn Văn Thù Bồ Tát thì ở phía Tây Nam…"

Giáo sư Phương Tân chợt ngắt lời: "Đợi chút đã, Bát Diệp Lão Sư mà đại sư nói, là Mạn Đà La đúng không!"

Lạt ma Á La gật đầu: "Không sai." Giáo sư Phương Tân không lên tiếng hỏi nữa, chỉ thấp giọng lẩm bẩm: "Mạn Đà La, Mạn Đà La, thì ra là Mật giáo, chẳng trách những tượng Phật kia đều có ba mắt, tướng mạo phẫn nộ, nhiều tượng còn không nhận ra được nữa."

Lạt ma Á La lại nói tiếp: "Đồng và thủy là gì thì tạm thời chưa biết, còn Vô Lượng Minh là tên Phật ở Tây phương Tịnh thổ, cũng là Tây phương Cực lạc Thế giới mà người ta vẫn nói tới. Ghép tất cả lại với nhau, ý nghĩa đại khái chắc là, đến giờ Kim ngưu, sao Quỷ sẽ ở phía trên đỉnh, ánh sáng chiếu vào viên hồng ngọc này chiết xạ đến thánh vật gì đó ở phía Tây Nam, chiếu lên hình ảnh Thế giới Cực lạc. Còn nơi đặt viên ngọc này cũng không phải mõ miếc gì, mà chắc là trung tâm vũ trụ của Mật giáo, Tu Di sơn… Bát Diệp Liên Hoa Tu Di sơn."

Nghe lạt ma Á La giải thích xong, Trác Mộc Cường Ba và giáo sư Phương Tân, Đường Mẫn đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều dâng lên một cảm giác quái lạ, hình như trên thế giới này có rất nhiều thứ liên hệ với nhau một cách vô cùng chặt chẽ. Quá trình mà lạt ma Á La vừa nói, gần như giống hệt với quá trình họ trông thấy trong địa cung Ah Puch, chỉ là chiếc đầu lâu pha lê thay bằng viên hồng ngọc nhỏ hơn, có lẽ nào, thần tích mà chiếc đầu lâu pha lê ấy làm hiển hiện, cũng là truyền đến từ đất Tạng này?

Giáo sư Phương Tân hỏi lạt ma Á La: "Chẳng lẽ nơi này là do Mật giáo xây dựng?"

Lạt ma Á La lắc đầu: "Chưa chắc, thực ra trong cả quá trình từ trước khi Tán thổ đời thứ ba mươi hai chính thức cho du nhập Phật giáo, đến khi Tán thổ thứ bốn mươi hai diệt phật, sau đó Phật giáo tái hưng khởi, các tôn giáo ở Tây Tạng đều ở trong tình trạng ám đấu, có rất nhiều tôn giáo đã diệt vong, đồng thời cũng có rất nhiều giáo phái mới tách ra từ các giáo phái vốn có. Mạn Đà La mà chúng ta trông thây ở đây dường như có liên quan tới Mật giáo. Mật giáo cũng là một nhánh của Phật giáo, nhưng bức tượng Không Hành Mẫu lúc nãy chúng ta thấy lại bắt nguồn từ các truyền thuyết cổ xưa của Tây Tạng, hình như là Cửu Nguyên Tằm Mẫu và Mao Yêu Nữ Vương thì phải. Hai bức tượng sau đó, theo kinh nghiệm của tôi thì có lẽ liên quan tới Bản giáo cổ xưa. Chắc là mọi người còn chưa biết, Bản giáo là tôn giáo nguyên thủy ở Tây Tạng, song thực ra khi mới hình thành, ngoại trừ các giáo lsy cảu bản thân nó, giáo phái này còn hấp thu rất nhiều từ các tôn giáo cổ đại khác, chẳng hạn như Bà La Môn giáo ở Ấn Độ, Vu giáo ở Ba Thục cổ, và các tín ngưỡng sùng bái tự nhiên của những bộ lạc nguyên thủy xung quanh. Vì vậy, thứ chúng ta nhìn thấy đây, rốt cuộc là một giáo phái thế nào, vì thời gian đã qua quá lâu rồi, nên rất khó đưa ra một kết luận chuẩn xác, có lẽ là một giáo phái đã dung hợp nhiều loại giáo lý khác nhau, hình thành trong thời Phật giáo và Bản giáo đang tranh chấp."

Nói tới đây, giọng lạt ma Á La khàn đi. Mọi người tưởng đó là vì ông nói một mạch dài quá, nhưng không ai để ý khóe mắt vị sư già đã thấp thoáng ánh lệ xúc động, trong lòng ông đang thầm gào hét: "Đức Ma Hê Thủ La chí cao vô thượng vạn năng, ngài có thể cho con biết, rốt cuộc Thánh giáo, Thánh giáo bị nhấn chìm trong dòng thời gian của chúng ta tên là gì? Tại sao cả một cái tên cũng không thể lưu lại? Tại sao!"

Đa Cát giật chiếc ống nhòm trong tay Đường Mẫn, nhìn ngó ngắm nghía một lúc, rồi chỉ tay vào thứ gì đó hỏi Nhạc Dương. Nhạc Dương nhìn thử, liền cất tiếng hỏi lạt ma Á La: "Đại sư, ngài xem đó là cái gì, hình như chính giữa chỗ nhô lên trên tường kia kìa."

Lạt ma Á La ngước nhìn những chỗ gồ lên khắp tường. Mặc dù vừa vào gian phòng hình tròn này mọi người đều đã phát hiện ra, nhưng không ai để ý đến cả, cho tới khi Nhạc Dương nhắc, giơ ống nhòm lên xem thử mới kinh ngạc nhận thấy chính giữa chỗ gồ lên ấy là một ống đồng. Ông liền hỏi Đa Cát: "Nơi đây là chỗ sâu nhất trong cung điện dưới đất này phải không? Ở đây anh đã đụng phải cơ quan lợi hại nhất, có phải không?"

Thấy Đa Cát gật đầu hai lần liên tiếp, lạt ma Á La vội nói: "Không xong rồi, cơ quan ở đây rất lợi hại, nhân lúc còn chưa khởi động, tất cả mọi người hãy lập tức rút đi, bằng không sẽ nguy đến tính mạng đó. Những chỗ gồ lên kia sẽ phun nước ra, tuyệt đối không thể chạm vào thứ nước ấy." Ông sợ hãi nhìn những chỗ gồ lên chi chít khắp tường, lòng thầm nhủ: "Không ngờ lại là Ni Thích Bộ Đà, đây… đây là cơ quan chỉ có trong truyền thuyết thôi mà!"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Kỳ quái thật, nhưng lúc vào đây chugns ta có giẫm phải cơ quan đâu nhỉ?"

Mọi người thu dọn đồ đạc, chuẩn bị rút ra. Trương Lập, Nhạc Dương, giáo sư Phương Tân trước sau lần lượt ra khỏi gian phòng hình tròn, đều không xảy ra chuyện gì kỳ lạ. Kế đó là Đa Cát cũng ra tới cửa. Đúng lúc đó, chợt nghe "cách" một tiếng, ống đồng hai bên cửa dường như có gì biến đổi, chỉ thấy hai vật trông như chiếc quản bút nhô lên phần mỏm của núm gồ, lạt ma Á La vội kêu lên: "Mau xông ra, không thể để nó phun nước! Bằng không thì không thoát được đâu." Trác Mộc Cường Ba thoáng ngẩn người, lập tức nghĩ đến Đường Mẫn vẫn còn ở sau lưng mình!

Nhưng ống đồng đã bắt đầu phun nước, Đa Cát sững người, Trác Mộc Cường Ba ở sau lưng liền đẩy mạnh một cái, hất anh ta khỏi phòng, hai tay vươn lên nắm lấy ống đồng trên cửa, ngón cái bịt chặt miệng ống. Lạt ma Á La kinh hãi thốt lên: "Cường Ba thiếu gia, cậu…"

Trác Mộc Cường Ba nói: "Chẳng phải là không thể để nó phun nước sao, đi mau!"

Đường Mẫn thảng thốt kêu lên: "Anh, Cường Ba…" Trác Mộc Cường Ba cao giọng quát: "Đi, đi nhanh lên!" Đường Mẫn và lạt ma Á La vội luồn qua dưới nách Trác Mộc Cường Ba, nhưng vẫn còn trong phạm vi phun nước, Trác Mộc Cường Ba nói: "Đuổi theo bọn họ! Anh theo sau!" Lạt ma Á La ánh mắt đầy vẻ sợ hãi liếc nhìn Trác Mộc Cường Ba một cái, thầm nhủ: "Cường Ba thiếu gia hoàn toàn không hiểu gì về Bản giáo cổ đại, thứ… này làm sao có thể dùng tay bịt lại chứ…"

Lúc này, gian sảnh phía ngoài cũng chợt có tiếng động lạ, Trương Lập hoảng hốt cúi đầu, liền bị một thứ gì không rõ lướt sát qua đầu, làm rơi cả một nắm tóc. Chỉ nghe Nhạc Dương ở sau kêu lên: "Hả, cái gì thế?" Giáo sư Phương Tân quát lên: "Cúi đầu xuống!" Trương Lập nói: "Chúng ta vẫn đi theo đường cũ cơ mà, có chạm phải gì đâu?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Không lo được nhiều chuyện thế nữa đâu, cứ xông qua rồi hãy tính." Trương Lập tránh một vật thể bay vù qua từ bên trái, kinh hãi kêu lên: "Ghê thật." Nhạc Dương kêu lên: "Cẩn thận sau lưng." Lời vừa dứt, Trương Lập liền "ôi cha" lên một tiếng, phần vai đã trúng thương. Anh ta nhịn đau rút thứ ám khí cắm vào vai ra, không ngờ lại là một chữ Vạn bằng kim loại mỏng dẹt, to như bàn tay, bốn cạnh đều có lưỡi dao, lúc xoay tròn trên không thì như chiếc boomerang, có thể tự bay ngược trở lại.

Sáu người cuống cuồng xông ra khỏi gian sảnh. Trương Lập bị thương nhẹ ở vai. Những người khác đa phần bị quẹt phải mặt hoặc tay. Cả lạt ma Á La cũng không tránh được. Đa Cát vóc người nhỏ bé thành ra lại không bị thương. Lúc ngoảnh đầu nhìn lại, mới thấy cả gian sảnh bên đó giờ toàn là các chữ Vạn bay qua bay lại vù vù, nhất thời mọi người đều kinh hãi không thốt nên lời. Đường Mẫn giờ mới hỏi: "Anh Cường Ba đâu?"

Mọi người đều giật mình hoảng hốt, chỉ có lạt ma Á La và Đa Cát là biết Trác Mộc Cường Ba ở lại bên trong bít hai cái ống đã bắt đầu phun nước, sau đó mọi người đều cuống lên tránh né chữ Vạn bay, thành ra không ai để ý Trác Mộc Cường Ba đã không chạy theo. Đa Cát đột nhiên chỉ tay nói: "Nhìn kìa, Thánh sứ đại nhân ở đó! Chính là ở đó!"

Chỉ thấy Trác Mộc Cường Ba ngã nhào bên cửa. Trong căn phòng mù mù một màn sương nước, không ngừng rơi xuống người gã. Thì ra đúng lúc mọi người xông ra khỏi phòng, Trác Mộc Cường Ba cũng chuẩn bị buông tay lao theo, đột nhiên thấy trên đầu mát rượi, gã liền biết ngay những núm gỗ khác cũng bắt đầu phun nước. Cảm giác man mát qua đi, đỉnh đầu gã đột nhiên ngứa ran lên, vậy còn chưa hết, kế đó cơn ngứa lan đi khắp toàn thân, rồi thêm đau đớn không sao chịu nổi, nhưng cảm giác ngứa vẫn không giảm bớt chút nào, ngứa ran từ ngoài vào đến tận trong, tựa hồ như có vô số con kiến nhỏ li ti đang bò vào xương tủy. Toàn thân gã run lên bần bật, hai bàn tay đang ấn lên ống phun tự nhiên lỏng ra, cánh tay thõng xuống. Mọi ống phun đều đã phun nước, từng đợt sương mù lan khắp gian phòng, bao bọc hết xung quanh Trác Mộc Cường Ba. Gã đau đớn lăn lộn dưới đất kêu lên hai tiếng, song âm thanh đó đã bị những chữ Vạn bay vù vù bên ngoài nhấn chìm đi mất.

Lạt ma Á La nhìn những chữ Vạn bắn qua bắn lại vù vù liên tiếp, nhìn bức tượng đeo bảy chiếc mặt nạ quỷ, bộ dạng như đang nuốt kiếm ở chính giữa đại điện, rồi đưa mắt nhìn những người còn lại, chỉ thấy Đường Mẫn mấy lần định xông trở vào nhưng đều bị Trương Lập, Nhạc Dương giữ rịt, giáo sư Phương Tân ủ rũ nhíu chặt hai hàng lông mày, còn Đa Cát thì đang định nhao vào kéo Trác Mộc Cường Ba ra. Lạt ma Á La vội kéo anh ta lại, nói: "Không thể trở vào, giờ không thể chạm vào người cậu ấy được đâu. Chúng ta phải dùng dây thừng kéo ra vậy." Nói đoạn, ông vung tay lên, sợi dây thừng liền móc đúng vào ba lô của Trác Mộc Cường Ba, kéo gã qua lối đi chính giữa gian sảnh mé bên. Lúc qua khu vực có chữ Vạn bay đi bay lại, ba lô bị cắm chi chít như lông nhím, Trác Mộc Cường Ba may không bị dính vết thương nào.

Nhưng thân thể Trác Mộc Cường Ba đã dần có biến đổi. Đường Mẫn giơ tay bụm miệng, như muốn thất thanh khóc òa ngay lên vậy. Giáo sư Phương Tân và Trương Lập đều thoáng lạnh người. Trương Lập nói: "Sao lại như vậy chứ?" Khắp người Trác Mộc Cường Ba, cứ hễ chỗ nào bị thứ nước kia dính vào đều đã biến thành màu xanh lục cả. Hơn nữa, trên bề mặt da màu xanh lục ấy chỉ thoáng sau đã nổi lên những vết lở loét lớn nhỏ, y như các vết rộp bỏng.

Cơ quan của Mật giáo

Lạt ma Á La không cho mọi người lại gần, đồng thời chỉ vào bức tượng đeo mặt quỷ nuốt kiếm hỏi Đa Cát: "Vị thần này, vừa nãy có phải cậu gọi là Cụ Lợi Ca La Bất Động Tôn, đúng vậy không?" Đa Cát gật gật đầu nói: "Kiếm có hắc long quấn quanh là bản tôn, Cụ Lợi Ca La đại long, nuốt thanh kiếm sắc."

Lạt ma Á La nói: "Không, không phải, đây là Đức Xoa Ca Long Vương, nhìn đâu độc đấy. Trong Tạng giáo cổ đại và trong cả dân gian, là hóa thân của Ôn thần. Nhanh lên, tìm nơi nào có nước, vừa nãy không phải chúng ta có đi qua một hồ nước sao, khiêng cậu ấy đến đó, không được chạm vào bất cứ chỗ nào trên cơ thể cậu ấy đấy."

Bốn người Trương Lập, Nhạc Dương, giáo sư Phương Tân và lạt ma Á La đeo găng tay, bỏ ba lô xuống, rồi chia nhau nắm chân tay Trác Mộc Cường Ba, chạy như bay về phía có hồ nước. Đường Mẫn và Đa Cát theo phía sau. Lúc này ở gian phòng Đa Cát bị nhốt nước đã rút gần hết để lộ ra mép hồ. Lạt ma Á La bước lại gần hồ nước, nói: "Cởi hết quần áo trên người cậu ấy ra, không được để lại thứ nào cả."

Đằng nào Đường Mẫn cũng không phải người ngoài, mấy người liền nhanh nhẹn lột sạch quần áo trên người Trác Mộc Cường Ba. Lạt ma Á La chỉ đạo: "Ném xuống hồ nước, trước tiên bịt mũi miệng ngâm cả đầu cậu ấy xuống, làm mấy lần vào. Sau đó một người nâng đầu cậu ấy lên, đừng để ngập, cứ ngâm trong nước như thế đi." Thân thể Trác Mộc Cường Ba vừa chìm xuống hồ, trên mặt nước liền nổi lên một tầng váng máu xanh lục, càng lúc càng lan rộng, trở nên dày đặc, nhưng chỉ thoáng sau đã rã ra, rồi trôi theo dòng nước, không biết là chảy đi đâu.

Nhạc Dương nhấc đầu Trác Mộc Cường Ba lên nói: "Đây… đây là cái gì vậy?"

Lạt ma Á La giải thích: "Nói theo quan điểm hiện đại, đây có lẽ là một loại vi sinh vật thuộc họ nấm hoặc tảo, bột phấn phơi khô của chúng gây dị ứng rất mạnh cho da người, hơn nữa hình thức bào tử đặc biệt này khiến chúng luôn ở trạng thái ngủ, gặp nước mới tỉnh lại, nhưng chu kỳ sống rất ngắn, chỉ cần có đủ nước, bọn chúng sẽ chết rất nhanh. Tác động của cái thứ màu xanh này rất ghê gớm, trong nửa tiếng đồng hồ mà không có phương pháp trị liệu hiệu quả, sẽ khiến nạn nhân toàn thân lở loét mà chết. Cường Ba thiếu gia cũng coi như là mạng lớn…"

Giáo sư Phương Tân nói: "Loại cơ quan phun nước này hình như trước nay chúng ta chưa từng thấy bao giờ thì phải."

Lạt ma Á La gật đầu: "Ừm, thứ cơ quan này có lẽ là bắt nguồn từ Bản giáo." Nói tới đây, ánh mắt lạt ma Á La quét qua từng người một, một lần nữa hỏi lại câu chính ông từng hỏi Lữ Cánh Nam: "Mọi người hiểu được bao nhiêu về Bản giáo cổ ở khu vực Tây Tạng này?"

Vấn đề này… quả thực không ai trả lời được. Bị ánh mắt lạnh lẽo của lạt ma Á La quét qua, người nào người nấy đều không khỏi run lên.

Lạt ma Á La chậm rãi nói tiếp: "Bản giáo cổ đại là một trong những tôn giáo của loài người sản sinh ra từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên nguyên thủy, sớm hơn rất nhiều sơ với các giáo phái nổi tiếng như Phật giáo, Đạo giáo, Cơ Đốc giáo…, tôn sùng tự nhiên, tôn sùng tất cả các lực lượng không thể kháng cự mà bấy giờ con người còn chưa hiểu biết, mưa gió sấm chớp, chim thú hoa lá, cây cỏ đất đá, không thứ nào không phải là đối tượng tôn sùng. Bản giáo cũng như rất nhiều tôn giáo nguyên thủy khác, cũng có thầy mo cầu phúc, dùng người sống tế trời; đối với tất cả các sự vật chưa biết, cổ nhân đều phải dùng thân thể mình để cảm nhận; tất cả các loại động thực vật, loại nào ăn được, loại nào không ăn được đều phải dùng miệng nếm thử; tất cả các hiện tượng kỳ lạ, chẳng hạn như lửa cháy, nước chảy, gió thổi, sét đánh, đều phải dùng thân thể tiếp xúc; thực vật sinh trưởng, chim chóc bay lượn, cá bơi dưới nước, cổ nhân đều tìm cách mô phỏng, đây là giai đoạn tất yếu mà tất cả mọi nền văn minh đều phải trải qua. Chính trong những thử nghiệm, thí nghiệm không ngừng lặp đi lặp lại ấy, trải qua tích tụ lịch sử, Bản giáo cổ đại đã hình thành cho mình một hệ thống phòng ngự hoàn chỉnh riêng biệt để chống lại kẻ địch bên ngoài. Đó là họ đã phát minh ra… Cổ độc (Sâu độc)!"

"Cổ độc!" Vừa nghe thấy từ này, ngoại trừ Đa Cát, tất cả mọi người đều giật mình đánh thót. Từ ngữ này vốn đã toát lên vẻ âm hiểm vô cùng, thoạt nghe là người ta đã liên tưởng đến những thứ đáng sợ quái đản, kiểu như Ngũ Độc giáo hay đập hình nhân vậy. 

Lạt ma Á La nói tiếp: "Đất Tạng thuở xưa, đặc biệt là vùng phía Đông Lâm Chi, nhất là khu vực Mặc Thoát này, môi trường cực kỳ khắc nghiệt, có rất nhiều loại sâu kiến, nhiều nơi còn có chướng khí, xuất hiện độc trùng, gây ra bệnh dịch cho con người, lại không biết phải đề phòng thế nào… Chính những điều này đã tạo ra hoàn cảnh rất thuận lợi cho Cổ độc được sản sinh và phát triển. Sau đó, trong khi giao chiến với Phật giáo, Bản giáo cổ đại dần dịch chuyển, về sau thứ Cổ độc này mới truyền vào vùng Vân Nam, Quý Châu và phát triển rực rỡ ở đó. Trong tiếng Tạng nó vốn không gọi là Cổ độc, đây là tên do người Hán sau này đặt ra. Thực ra Cổ và Độc là hai ý tách rời nhau, vốn cùng thuộc về phạm trù độc. Cổ là dùng các loại sâu kiến cho đánh nhau để chế độc, còn độc là dùng cây, cỏ, thuốc, đất đá chế độc. Chữ Cổ gồm chữ "trùng" và chữ "vại", ý là chỉ việc dùng vại nuôi trùng, sau đó đặt trùng vào bụng cho ăn gan ruột nạn nhân gọi là "cổ". Chữ độc chiết tự ra gồm chữ "thanh" và chữ "mẫu", chỉ việc lấy cỏ cây đất đá trị bệnh, về sau chữ "trị" trong trị liệu bệnh tật biến thành chữ "trí" (đến) trong "đạo trí" (dẫn đến), thành ra nghĩa là "dùng cỏ cây đất đá gây bệnh". Đây chính là ý nghĩa ban đầu của cổ độc. Về sau thì phạm vi của cổ độc trở nên rộng hơn, phàm hễ nuôi sâu nuôi trùng lấy độc, không nhất thiết phải cho lũ sâu trùng ấy vào bụng người khác mới gọi là cổ, còn bất kể là trùng độc hay độc chất từ thực vật, chỉ cần là loại thuốc khiến thân thể người khó chịu, thì đều gọi là độc hết. Thứ mà lần này Cường Ba thiếu gia trúng phải, cũng có thể nói là một loại cổ độc."

Trương Lập như sực hiểu ra, nói: "Tôi hiểu rồi, cái lối đi hẹp ở ngoài kia có nhiều xác chết như vậy, khẳng định là bị trúng độc mà chết rồi, vì vậy mới không có vết thương, hơn nữa lại còn chết nhiều như thế, chẳng trách kẻ hơn trăm năm trước đã không thể vượt qua đó được."

Đường Mẫn lo lắng nói: "Vậy, vậy có cách gì giải độc không?"

Lạt ma Á La nói: "Cổ độc vô cùng quái lạ, cách gieo độc lại nhiều không kể xiết, không thể biết cách giải toàn bộ các loại độc được. Loại Ni Thích Bộ Đà này, vốn bắt nguồn từ danh tự nơi địa ngục, cũng may ta từng đọc thấy trong các thư tịch cổ. Nếu như phương pháp không đúng, hậu quả thật không thể nào tưởng tượng được. Được rồi, hơi thở rất bình ổn, các vết lở loét trên người cũng bắt đầu bớt đi, giờ chắc là đã ổn định rồi, một lát nữa Cường Ba thiếu gia sẽ tỉnh lại thôi, nhưng ít nhất phải ngâm thêm nửa tiếng đồng hồ nữa. Theo những gì chép trong sách cổ, chỉ cần rửa sạch chất độc bám trên người, nửa tiếng sau sẽ hồi phục bình thường. Giờ tôi quay lại chỗ Đức Xoa Ca Long Vương xem một chút. Đúng rồi, sau khi Cường Ba thiếu gia tỉnh lại, hãy ngâm quần áo đồ đạc của cậu ấy xuống nước một lúc, đề phòng hậu họa."

Nhạc Dương nói: "Gì cơ, đại sư còn muốn quay lại đó nữa ư?"

Lạt ma Á La gật đầu: "Ừm, ta phải quay lại xem một chút. Mặc dù chúng ta đã thoát thân, nhưng không ai biết cơ quan khởi động như thế nào cả, nếu lần sau mà gặp phải cơ quan tương tự như vậy, chẳng phải là cả cơ hội giữ mạng cũng không có hay sao. Đa Cát đi cùng với ta."

Đa Cát nhìn Thánh sứ đại nhân, rồi lại ngước nhìn lạt ma Á La, cuối cùng cũng hoang mang theo ông rời khỏi. Nhìn vị đại sư hiểu biết về tín ngưỡng của mình còn sâu rộng hơn chính mình, trong lòng Đa Cát chợt dâng lên một thứ cảm giác kính sợ như đối với các bậc trưởng lão trong thôn.

Sau khi lạt ma Á La rời khỏi, Trương Lập liền y lời đi dọn lại đống quần áo vứt vung vãi của Trác Mộc Cường Ba, lấy mấy thứ quan trọng ra dồn vào một chỗ, chuẩn bị đợi gã tỉnh lại sẽ ngâm xuống nước.

Đường Mẫn thấy Nhạc Dương đỡ Trác Mộc Cường Ba vất vả, liền đeo găng tay vào xuống nước đòi thay ca. Nhạc Dương không nỡ từ chối, đành nhường lại cho cô. Nhìn người yêu yên bình nằm trong vòng tay mình tựa như đứa trẻ sơ sinh, Đường Mẫn chợt thấy dâng lên một cảm giác kỳ lạ, cô hân hoan thầm nhủ: "Cuối cùng, em cũng có thể làm chút gì đó cho anh rồi, anh Cường Ba, anh phải bình an vô sự tỉnh lại đấy nhé, nếu anh gặp phải chuyện gì, em làm sao…"

Giáo sư Phương Tân nhìn Trác Mộc Cường Ba gặp đại nạn không chết trong hồ nước, không khỏi thở dài một tiếng. Để cô bé Đường Mẫn và Trác Mộc Cường Ba ở riêng với nhau, ông bèn quay ra sắp xếp lại đồ đạc cho gã. Nhạc Dương cũng tới giúp một tay.

Lúc Trương Lập sắp dọn quần áo cho Trác Mộc Cường Ba, phát hiện ra trong áo có một cái túi ngầm, liền lấy các thứ bên trong ra. Ba người sáu con mắt vừa nhìn đã trợn tròn hết cả lên, Nhạc Dương không nhịn nổi ngoảnh đầu lại liếc Đường Mẫn một cái, chỉ thấy Đường Mẫn vẫn đang tha thiết nhìn Trác Mộc Cường Ba, như không còn biết mình đang ở nơi nào. Trong túi ngầm có bốn món vật nhỏ, thứ đầu tiên là một thanh kiếm chữ thập bằng đồng mạ vàng, to cỡ bàn tay. Đó là tín vật gia truyền Đức Nhân lão gia đưa cho Trác Mộc Cường Ba lúc gã mới tham gia nhóm huấn luyện đặc biệt. Ngoại trừ giáo sư Phương Tân, những người khác đều chưa thấy bao giờ. Món thứ hai là một viên đá hình ovan dài có hoa văn đen trắng. Giáo sư Phương Tân nhận ra thứ này gọi là Thiên châu, tín vật có giá trị cao vô thượng trong lòng người dân tộc Tạng, mức độ trân quý được xác định dựa vào số lượng hoa văn giống như con mắt của nó, nếu có chín mắt thì gọi là Cữu Nhãn thạch, đã là tương đối quý giá rồi, thế mà cái Thiên châu này lại khắc tới mười tám con mắt, chính giữa còn có hình một chiếc bảo bình. Chỉ cần liếc qua số lượng mắt giáo sư Phương Tân cũng biết ngay đây tuyệt đối không phải Thiên châu bình thường, nhưng là loại gì thì ông cũng không biết. Đây có lẽ là một trong những bí mật ít ỏi của Trác Mộc Cường Ba cũng nên. Vật thứ ba là chiếc sáo xương mà ba anh em sói xám ở Khả Khả Tây Lý tặng Trác Mộc Cường Ba. Trương Lập cũng không ngờ Cường Ba thiếu gia lại coi trọng tình bạn với ba anh em nhà sói xám đó đến thế.

Nhưng thứ khiến mọi người tròn mắt chính là món cuối cùng, và cũng chính là cái cớ để Nhạc Dương phải ngoảnh đầu lại nhìn Đường Mẫn. Đó là một tấm ảnh nhỏ bằng lóng tay, đã hơi ngả vàng, chụp một cô bé xinh xắn như thiên sứ đang nhoẻn miệng mỉm cười ngây thơ, đôi lông mày, đôi mắt ấy, rõ ràng chính là một cô Đường Mẫn nhỏ. Trương Lập len lén đưa mắt nhìn Đường Mẫn, hạ giọng thì thầm: "Thật không ngờ Cường Ba thiếu gia yêu Mẫn Mẫn đến tận xương tủy rồi, cả ảnh hồi nhỏ của người ta cũng giấu áp vào ngực. Chà, xem ra Thạch Quan m nương nương 2 của chúng ta…"

Nhạc Dương cũng thì thào đáp lại: "Không phải chỉ đơn giản là ăn vào xương tủy thôi đâu, tôi thấy là yêu đến mức tẩu hỏa nhập ma rồi đấy. Người lớn sống sờ sờ ra trước mắt, tại sao lại phải giữ một tấm ảnh hồi nhỏ của người ta làm gì chứ?"

Giáo sư Phương Tân đột nhiên thấp giọng nói: "Không, không phải, đây không phải là ảnh của Mẫn Mẫn." Trương Lập và Nhạc Dương đều "í" một tiếng. Giáo sư Phương Tân giải thích: "Nhìn công nghệ cắt riềm hoa này mà xem, còn cả mức độ cũ kỹ của bức ảnh này nữa, hai cậu xem, bức ảnh này ít nhất cũng phải chụp từ hai mươi năm trước, lúc ấy Mẫn Mẫn còn chưa ra đời cơ đó."

Trương Lập kinh ngạc kêu lên khe khẽ: "Chà, vậy là ai nhỉ?"

Tâm tình giáo sư Phương Tân trong thoáng chốc như trĩu xuống, ông thì thào nói: "Tôi biết rồi, đây có lẽ là nỗi đau lớn nhất trong lòng Cường Ba đó. Sự việc này, e cũng là nỗi đau lớn nhất của gia đình họ, xưa nay chưa từng được nói ra với người ngoài bao giờ, tôi cũng chỉ biết được loáng thoáng qua những câu chuyện thường ngày thôi. Cường Ba… cậu ấy vốn còn một em gái nhỏ hơn mình mười mấy tuổi…"

Giáo sư Phương Tân khẽ thở dài. Trương Lập và Nhạc Dương ghé sát đầu lại, chỉ nghe giọng giáo sư Phương Tân vo ve như tiếng muỗi kêu: "Khi em gái cậu ấy còn rất nhỏ, Cường Ba dẫn em gái ra ngoài chơi, không ngờ để người ta bắt cóc mất. Mở mắt trân trân nhìn em gái mình bị người ta cướp đi ngay bên cạnh, vết thương lòng ấy chỉ sợ cả đời này cũng khó mà liền được."

Nhạc Dương lí nhí nói: "Sao lại thế chứ?"

Giáo sư Phương Tân nói: "Hình như vì bộ Ninh Mã cổ kinh của gia tộc họ. Đức Nhân lão gia cũng thật kiên quyết, ngày thứ hai sau khi nhận được yêu cầu của bọn bắt cóc đã tuyên bố rằng sẽ hiến tặng bộ kinh cho nhà nước. Hình như kể từ hôm đó trở đi, hai cha con họ mười mấy năm trời không nói với nhau một câu nào thì phải."

Trương Lập thở dài nói: "Người vốn không có tội, chỉ có tội mang của báu trong mình, hà…"

Giáo sư Phương Tân như sực tỉnh ra, nói: "Lạ thật, tại sao tôi lại nói những chuyện này với hai cậu nhỉ? Nhớ kỹ đấy, chuyện này Cường Ba không muốn nhắc lại, các cậu không được nói với bất cứ ai, đến đây là chấm dứt, coi như chưa từng nghe thấy, OK?"

Trương Lập, Nhạc Dương vội vàng cam đoan, một người nói "hiểu rồi, hiểu rồi", một người nói "đã hiểu, đã hiểu". Nhạc Dương ngoảnh đầu lại nhìn Đường Mẫn và Trác Mộc Cường Ba, thầm nhủ: "Thì ra là thế, vậy thì không khó lý giải tình yêu của Cường Ba thiếu gia với cô Mẫn Mẫn nữa rồi, không ngờ trong ấy lại bao hàm ba tầng tình ái, vì cách biệt tuổi tác, nên có tình yêu giữa cha và con gái, vì hấp dẫn lẫn nhau nên nảy sinh tình cảm lứa đôi, đồng thời lại vì ký ức đau thương, lại còn thêm tình yêu của anh trai dành cho em gái nữa. Trời đất, chẳng trách Cường Ba thiếu gia lại yêu cô Mẫn Mẫn đến hồ đồ, lung tung xà bần lên như vậy."

Đường Mẫn đột nhiên reo lên: "Tỉnh rồi, anh ấy tỉnh rồi!"

Mấy người vội chạy tới bên cạnh Trác Mộc Cường Ba. Gã mở mắt ra nói: "Tôi, tôi vẫn sống à?"

Chương trước | Chương sau

↑↑
27 Nhát Dao Bí Ẩn

27 Nhát Dao Bí Ẩn

Tháng năm tươi đẹp, tiết xuân còn chưa đi hết, mùa hè đã nhanh chóng kéo đến, thời

20-07-2016 6 chương
Thiên Tỏa

Thiên Tỏa

Thiên Tỏa được sáng tác dựa trên những tình tiết có thật trong quá trình phá án của

27-07-2016 34 chương
Cuồng Vọng Phi Nhân Tính

Cuồng Vọng Phi Nhân Tính

Câu truyện rất logic và hợp lí, miêu tả sâu sắc tâm lí nhân vật nhất là những

19-07-2016 38 chương
Tiệc Báo Thù

Tiệc Báo Thù

Nếu bạn đã từng đọc Kỳ Án Ánh Trăng của tác giả Quý Cổ Nữ thì sẽ biết tác

19-07-2016 40 chương
Tiệc Báo Thù

Tiệc Báo Thù

Nếu bạn đã từng đọc Kỳ Án Ánh Trăng của tác giả Quý Cổ Nữ thì sẽ biết tác

19-07-2016 40 chương
Người Đẹp Trả Thù

Người Đẹp Trả Thù

Lòng hận thù của con người rồi cũng đến lúc kết thúc, tình yêu đã giúp Tiểu Nê

20-07-2016 28 chương
Âm Láy Ma Quỷ

Âm Láy Ma Quỷ

Nếu bạn muốn tìm một cuốn truyện mà bạn không thể cưỡng lại sức hút của nó,

19-07-2016 72 chương
Âm Mưu Thay Não

Âm Mưu Thay Não

Và có lẽ nhiều bạn đọc đang băn khoăn không hiểu cuộc sống của nhân vật Hà Phan

20-07-2016 48 chương
Thiên Tỏa

Thiên Tỏa

Thiên Tỏa được sáng tác dựa trên những tình tiết có thật trong quá trình phá án của

27-07-2016 34 chương
Âm Mưu Thay Não

Âm Mưu Thay Não

Và có lẽ nhiều bạn đọc đang băn khoăn không hiểu cuộc sống của nhân vật Hà Phan

20-07-2016 48 chương
Ba

Ba

Mẹ thường bảo tôi là một đứa con gái thật chẳng giống con gái một xíu nào. So với

23-06-2016
Gã

Vâng. Lại là gã. Chính gã chứ không phải ai khác. Gã lại đến tìm Linh. Cứ rảnh là

23-06-2016
Thiên Hậu Của Ông Chủ

Thiên Hậu Của Ông Chủ

Cô là ca sĩ nổi tiếng trong giới showbiz rốt cuộc lại là Thiên Hậu Của Ông Chủ, bất

23-07-2016 10 chương
Má, con và...

Má, con và...

"Nhưng giờ tôi biết má cũng buồn, bởi nhiều lúc tôi bỏ bà một mình ở nơi cũ, thời

24-06-2016