Người Kukuer rất giỏi uống rượu, họ dùng mật ong, nước và một loại rễ cây đặc biệt để ủ rượu, làm ra một loại rượu nồng độ rất cao, mùi thơm sực nức.
bạn đang xem “Mật Mã Tây Tạng ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!Điều làm Trác Mộc Cường Ba thấy hứng thú nhất là người Kukuer hầu như nhà nào cũng nuôi chó, rất tạp, nhỏ thì có chó không lông, chó đốm hoa, chó chồn, lớn thì có chó fila, có chăn cừu, chó bull, thứ nào cũng có, thậm chí còn có cả loại mà Trác Mộc Cường Ba không gọi được tên. Đáng kinh ngạc nhất là, lũ chó này đều không sủa, thấy người tới thì chỉ nghếch mắt lên liếc nhìn một cái, rồi lại nhắm tịt mắt vào ngủ, đến cả mấy con nổi tiếng hung hăn như chó ngao Brazil cũng thế.
Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou tại sao chó họ nuôi lại không kêu, câu trả lời của cô là, đó là cách huấn luyện chó đã lưu truyền từ rất lâu rồi, ở đây họ có câu tục ngữ gọi là: "Chó không sủa mới là chó tốt." Trác Mộc Cường Ba cứ có cảm giác hình như mình đã nghe cách nói này ở đâu rồi, có điều gã vừa mới khỏi bệnh, trước sau không tài nào nhớ ra nổi. Gã đến trước mặt một con chó trông có vẻ như là chó Argentina, xoa xoa đầu con vật đang rúc mình ngủ khò khò ấy, con chó mở đôi mắt nhập nhèm lên nhìn Trác Mộc Cường Ba, ngáp một cái rõ dài, rồi quẫy quẫy đuôi, vùi đầu ngủ tiếp. Trác Mộc Cường Ba tò mò hỏi: "Nếu không sủa, vậy tác dụng chủ yếu của chúng là làm gì?"
Babatou đáp: "Có thể dùng đề truy dấu vật săn, có điều hầu hết thời gian bọn chúng đều chơi với lũ trẻ con, địa vị của chúng trong làng của chúng tôi cũng cao lắm đấy nhé. Trong làng có tập tục, nhà nào có chó bất hạnh qua đời, thì phải cử hành tang lễ long trọng cho nó, hơn nữa về sau chúng còn được hợp táng với chủ nhân của mình nữa cơ." Trác Mộc Cường Ba lại hỏi thêm một số chuyện về lũ chó châu Mỹ này, kết quả phát hiện ra Babatou cũng không thích chó lắm, cô cũng chỉ biết là có tập tục như vậy, còn tại sao lại có, thì cũng không rõ cho lắm.
Ngoài đền thờ và đàn tế, Babatou đã dẫn Trác Mộc Cường Ba đi tới từng góc nhỏ của ngôi làng bộ tộc Kukuer cư trú, giúp gã có đượcn những hiểu biết đại thể về bộ lạc nửa nguyên thủy nửa văn minh này. Tham quan trong bộ lạc Kukuer này, Trác Mộc Cường Ba cảm thấy sức khỏe mình đã khôi phục đáng kể, bèn định tạm biệt Babatou, nhưng bị cô từ chối. Babatou nói: "Bây giờ sức khỏe anh vừa mới bình phục, còn chưa cảm thấy gì, nhưng chất độc trong cơ thể thì chưa hoàn toàn hết đâu, đi trong rừng một hai ngày là lại tái phát nữa đấytôi phải tiếp tục bôi thuốc cho anh mới được. Còn nữa, dù có muốn đi, thì nhất định cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, ngày mai chính là ngày lễ của bộ tộc Kukuer chúng tôi, mọi người ai cũng tham gia chúc mừng, nếu đại ân nhân của bộ lạc như anh mà không tham gia, tức là đã coi thường người Kukuer chúng tôi, mà chúng tôi thù dai lắm đấy nhé. Trong rừng sâu, cả quân du kích và bọn buôn lậu đều biết rất rõ, ở vùng này mà đắc tộc với người Kukuer, muốn đi một bước cũng khó khăn lắm. Nhìn anh kìa, cuống lên muốn đi như vậy, chẳng lẽ người Kukuer chúng tôi làm anh thấy ghét thế à?"
Trác Mộc Cường Ba vội nói: "Không phải, vì lần đầu tiên chúng ta gặp mặt vội vã quá, có rất nhiều chuyện mọi người còn chưa hay. Chúng tôi đang tham gia một đội thi đấu tranh giải, phải từ Putumayo băng qua rừng nguyên sinh tới Saint Mary trong thời gian quy định, bị chậm trễ ở đây, chúng tôi đã bị các đội khác bỏ rớt lại phía sau rồi, thế nên tôi mới nghĩ, nếu mình cử động được rồi, vậy thì phải nhanh chóng đuổi kịp các đội khác."
Babatou dẩu môi lên nói: "Tôi mặc kệ, thế nào anh cũng phải đợi qua ngày mai mới đi được, mấy bạn kia của anh đều đang giúp chúng tôi sắp xếp cho buổi lễ cơ mà." Vừa nói cô vừa nhủ thầm: "Bôi cho anh bao nhiêu nước ép với dầu Maja, thế nào cũng không thể chưa có tác dụng gì đã để anh đi rồi chứ." Nghĩ tới đây, cô không giấu nổi một nụ cười tinh nghịch, làm Trác Mộc Cường Ba lại thêm một phen mù mờ chẳng hiểu ra làm sao.
Trác Mộc Cường Ba nói: "Ngày mai chắc không phải ngày thu hoạch mùa màng, vậy là ngày lễ gì nhỉ?"
Babatou nghiêng đầu nói: "Ừ, nói thế nào nhỉ, ngày mai là ngày lễ lớn một năm một lần của chúng tôi, đã lưu truyền từ rất lâu rất lâu rồi, giống như… có lẽ là giống ngày lễ Độc lập của người Mỹ vậy, tôi nghĩ chắc là như thế đấy, có điều theo cách nói của tổ tiên, thì đây là ngày lễ do thần thánh đặt ra đó."
Trác Mộc Cường Ba không nói lại được Babatou, đành miễn cưỡng gật đầu đáp ứng, gã muốn một mình yên tĩnh để suy nghĩ lại các vấn đề gặp phải trong lần băng rừng này. Babatou cũng bận rộn sắp xếp chuẩn bị cho lễ tế, liền dặn dò Trác Mộc Cường Ba không được đi lung tung, rồi để gã một mình nghỉ ngơi.
Trác Mộc Cường Ba nhớ lại các vấn đề gặp phải trong cuộc hành trình này, không phải là không có chuẩn bị, bọn gã cũng đã điều tra nghiên cứu phạm vi thế lực của quân du kích và bọn buôn lậu ma túy rồi, cũng tìm hiểu tư liệu về các sinh vật nguy hiểm trong rừng rậm châu Mỹ, thế nhưng, khi mấy người bọn gã phải thực sự đối mặt với những nhân tố nguy hiểm đó thì đều tỏ ra luống cuống tay chân cả. Gã nhớ lại những điều Lữ Cánh Nam từng cảnh cáo trong lúc huấn luyện cả bọn, xem ra những lời ấy đích thực là rất chính xác – "Không tự thân trải qua, chỉ biết lý thuyết không thôi, dù là anh có đọc cả ngàn vạn lần thuộc lòng như cháo, thì cũng không bằng vận dụng trong thực tiễn một lần."
Từ miệng Babatou gã biết được, lãnh địa của người Kukuer nằm giữa Putumayo và Saint Mary, cũng có nghĩa là, bọn gã đã may mắn được người Kukuer đưa đi một đoạn khá dài. Nếu ngày kia mới rời khỏi bộ lạc Kukuer, thời gian đã mất một nửa, hành trình chỉ sợ mới đi được một phần ba, còn lại một nửa thời gian làm sao hoàn thành được hai phần ba hành trình còn lại đây? Không được, lần băng rừng này buộc phải hoàn thành, nhất định phải cho con mụ khó tính Lữ Cánh Nam đó biết được năng lực của bọn gã, dù là bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay vây bắt, bọn gã cũng vẫn băng qua được khu rừng rậm nguyên sinh nguy hiểm này. Tới lúc đó, để xem cô ta nói được gì? Như thế thì có thể trực tiếp đi tìm Bạc Ba La thần miếu được rồi. Trên thảo nguyên mênh mông ấy, bóng hình uy phong lẫm lẫm đó, đôi mắt tràn trề bá khí đó, vẫn còn đang đợi chờ gã cơ mà.
(1) Giản: Binh khí cổ, giống như thanh kiếm, nhưng không có mũi nhọn, cũng không có lưỡi hình trụ.
Lễ tế của người Kukuer
Trác Mộc Cường Ba ngồi trên một bình đài cao hơn mặt đất một chút, lòng hướng về sự thanh thản an nhàn, phảng phất như đã thấy Tử Kỳ Lân ở ngay trước mắt. Ở thôn làng dưới kia, người Kukuer đang ra ra vào vào bận rộn chuẩn bị cho lễ tế. Trên bãi đất trống phía xa xa, đám trẻ con Kukuer đang chơi đùa, bọn chúng dựng mấy tấm bảng gỗ ở đằng xa, có lớn có nhỏ, cắm hờ trên đất bùn, sau đó dùng một cái túi hình vuông bên trong nhét đầy bùn đất, ném vào bảng gỗ, hình như xem độ to nhỏ của bảng gỗ ném trúng để xác định địa vị cao thấp, chơi đùa hết sức vui vẻ.
Trác Mộc Cường Ba nhìn lũ trẻ với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, bọn trẻ này có cả nam cả nữ, nhưng trẻ con Kukuer đều không mặc bất cứ quần áo gì, bọn chúng vui vẻ nô đùa ầm ĩ, hình như không hề có phân biệt giới tính. Nhìn lũ trẻ ngây thơ hoạt bát ấy, Trác Mộc Cường Ba không khỏi nghĩ ngợi xa xăm: "Thời viễn cổ, phải chăng con người cũng như vậy? Mặc quần áo chỉ để chống lại cái lạnh, phòng ngừa bị sây sát kể từ khi nào, con người bắt đầu khoác lên cái áo văn minh, có nghi lễ tôn giáo, rồi tỏ ra khinh thường coi rẻ hành vi nguyên thủy này? Bọn họ quên mất bản tính động vật của mình, tự xưng mình là giống loài được thiên thần sủng ái, là tồn tại hoàn toàn khác biệt với những sinh mệnh khác trong tự nhiên, thế nên có quyền mặt sức muốn làm gì thì làm với những sinh vật cấp thấp hơn, đối với tự nhiên không có lợi cho văn minh của họ cũng thỏa ý phá hoại. Nền văn minh như của người Kukuer đây, liệu còn có thể tiếp tục tồn tại trong rừng sâu được bao nhiêu lâu nữa? Bọn họ hoặc là phải hòa nhập vào nền văn minh chung, hoặc là sẽ bị văn minh ấy tiêu diệt, chỉ có hai con đường ấy để lựa chọn mà thôi." Gã đứng dậy, dõi mắt nhìn khu rừng già tĩnh lặng, ai mà biết được, đằng sau sự tĩnh lặng ấy, ẩn chứa bao nhiêu âm mưu và chém giết. Sinh mệnh tồn tại được là nhờ xâm chiếm, trong thế giới này, có lúc nào mà không diễn ra cảnh thôn tính và chiếm đoạt. Bỗng nhiên, Trác Mộc Cường Ba giật mình ngoảnh đầu lại lần nữa, nhìn lũ trẻ đang chơi đùa kia, trò chơi ấy quả thực quá đỗi quen thuộc, hình như bản thân gã hồi nhỏ cũng chơi rồi thì phải. Đúng hồ nhỏ gã cũng chơi trò này rồi, chỉ có điều dùng bảng đá thay cho bảng gỗ, đá cục thay cho túi vải đổ bùn mà thôi. Đã bao nhiêu năm gã không chơi trò này rồi? Ba mươi năm? Hay là ba mươi lăm năm? Lâu quá rồi, bản thân gã cũng không nhớ nổi nữa.
Ngày hôm sau, là ngày lễ lớn nhất trong năm của người Kukuer, được họ gọi là lễ thần Nadimuke, lễ tế được mở màn trong tiếng ồn ào náo động. Người Kukuer tập trung cả ở bãi đất trống lớn nhất giữa làng, dùng ván gỗ dựng thành một vũ đài. Từ sáng sớm nam nữ già trẻ lớn bé đã đến xung quanh vũ đài, ai nấy đều hết sức dày công tô vẽ trên thân mình, dùng những màu đậm sặc sỡ nhất, những hoạt tiết phức tạp nhất, tộc trưởng và đại tế sư cũng có mặt. Bọn Trác Mộc Cường Ba ra chào tộc trường và đại tế sư, được sắp xếp ngồi vào bàn khách quý. Babatou không ngồi bên cạnh trưởng tộc, mà đặc biệt chạy tới làm thuyết minh cho mấy người đám Trác Mộc Cường Ba.
Đại tế sư là một ông già, tên là Akima, ông vừa cất tiếng nói, người bên dưới vũ đài liền im lặng như tờ. Giọng nói âm sắc cao âm vang khắp không gian rộng lớn, đợi khi đại tế sư nói xong, Babatou mới thì thầm nói cho bọn Trác Mộc Cường Ba biết, đây là đại tế sư đang thay mặt toàn bộ tộc cầu khẩn với thần linh.
Sau khi đại tế sư nói một tràng dài, lễ tế chính thức bắt đầu, người Kukuer dùng các thứ phát ra âm thanh có tiết tấu giống như trống gỗ, xương thú, vỏ quả, đồ gốm, và một loại nhạc khí giống cây sáo bốn lỗ thổi ra tiếng nhạc trầm hùng. Bốn người cao lớn vạm vỡ nâng một người tiến vào, người trong bộ tộc lần lượt cung kính nhường ra một con người, cúi rạp đầu xuống đất, xung quanh còn có rất nhiều người khác vung tay múa chân xoay chuyển nhảy múa, theo vào tận giữa bãi.
Bọn Trác Mộc Cường Ba nhìn thấy, những người đứng giữa đều đeo mặt nạ khắc bằng gỗ, bên trên tô hai màu đỏ, lam, dáng điệu hung hăng dữ tợn vô cùng. Babatou nói, người đàn ông được khiêng vào kia là Quilan, anh ta là người mang lời đáp của vị thần tối cao truyền đạt lại cho người trong bộ tộc, đây là màn đầu tiên, gọi là nghi thức ban tên của thần.
Người tên là Quilan đó ngồi ở ngôi cao, theo sau có rất nhiều người Kukuer đeo mặt nạ hình các loại động vật khác nhau lục tục kéo nhau vào sân trong nhịp trống, tiếp nhận sự chúc phúc của Quilan. Mỗi người đầu thú đều biểu diễn một điệu múa giữa khoảng đất trước mặt đám người đep mặt nạ khắc gỗ, đại để mô phỏng lại hành vi của loài động vật ấy, biểu hiện các ích lợi mà loài vật đó mang lại cho người Kukuer. Babatou giới thiệu, Quilan đang truyền đạt ý chí của thần tối cao, ban cho các loài động thực vật có ích cho bộ tộc Kukuer danh hiệu của thần, tổng cộng có tới hơn một trăm vị thần bước ra.
Từ lời giới thiệu của Babatou, họ biết được người Kukuer là một dân tộc đa thần, bọn họ tin thờ giáo nghĩa "vạn vật trong trời đất đều có thần linh", chẳng hạn như vị thần đầu tiên là thần quản việc trồng ngô, gọi là Yumil Kaxob, còn vị thần trông nom cây ca cao thì gọi là Ek Chuah. Trong đó so về thần bí thì không ai hơn được Yinawea, nghe nói, đó là bậc chân thần xuống chốn thế gian, đến cả một trong những vị thần có địa vị cao nhất là Thần Chó cũng phái phân thân xuống bảo vệ Yinawea. Vũ điệu tiếp sau biểu thị thần Yinawea chỉ dẫn tổ tiên người Kukuer đánh thắng chiến trận, xây dựng thành trì, lại dạy họ cách chữa bệnh, chế tạo đồ kim loại, canh nông, chăn nuôi gia súc, văn tự…
Xem mãi xem mãi, Trương Lập không khỏi nghi hoặc thốt: "Quái thật, sao càng xem tôi càng thấy giống lễ "nhảy đại thần" ở Tây Tạng thế nhỉ?"
Nhạc Dương hỏi: "Nhảy đại thần là cái gì?"
Trương Lập nói: "Cũng kiểu một hoạt động tôn giáo thôi, một điệu múa mà người biểu diễn phải đeo các loại mặt nạ khác nhau, sư đoàn trưởng có dẫn tôi đi xem một lần rồi. Mặt nạ ở Tây Tạng to hơn, hình vẽ quái dị hơn, hình như là kể một số chuyện giáng yêu trừ ma gì đó. Chẳng biết có phải mấy nền văn minh cổ đại đều có các hoạt động tương tự như thế hay không nhỉ."
Nhạc Dương nói: "Ừ, chỗ chúng tôi gọi là "nhảy nợ", chỗ chúng tôi cũng có, nghe anh nói vậy, mới thấy giống thật, quái lạ nhỉ?"
Trương Lập nói: "Mấy điệu múa kiểu sùng bái thần thánh này, chắc Trác Mộc Cường Ba hiểu biết hơn phải không, Cường Ba thiếu gia, Cường Ba thiếu gia?"
Trác Mộc Cường Ba đang thần người ra, từ lúc điệu múa tế thần bắt đầu, gã đã ngẩn người ra đó rồi. Mặc dù những tấm mặt nạ khắc gỗ kia và mặt nạ của kịch Tây Tạng có chút khác nhau, nhưng tư thế nhảy múa kia, nội dung điệu múa kia, chẳng phải chính là "khương mẫu (1)" của người Tạng hay sao? Mặc dù không thích đọc các thứ liên quan qua nhiều đến vấn đề tôn giáo, nhưng khương mẫu" và kịch nghệ của người Tạng, đều là những thứ hồi nhỏ Trác Mộc Cường Ba tương đối hứng thú. Bây giờ mặt dù không có âm nhạc hoành tráng như lúc biểu diễn "khương mẫu", chỉ có tiếng trống và tiếng gõ vào vỏ cứng của quả cây, nhưng động tác nhảy múa của người Kukuer kia, mặt nạ đầu thú mà họ đang đeo trên đầu, thật giống hệt như điệu "khương mẫu" mà gã xem hồi nhỏ. Trong khoảnh khắc đó, điệu múa thần bí mà nguyên thủy ấy, cơ hồ như lại đưa Trác Mộc Cường Ba trở về Tây Tạng, Tây Tạng thuở gã còn là một đứa trẻ, vùng đất vẫn còn chỉ thuộc về thiên nhiên vĩ đại, vùng đất còn chưa bị văn minh chinh phục!
Trương Lập hỏi mấy câu liền, Trác Mộc Cường Ba mới sực tỉnh, lẩm bẩm nói: "Cái gì? Nhảy thần? Hay lẽ nào, đây chính là ngôn ngữ cơ thể mô phỏng tự nhiên mà con người thời viễn cổ học được trước tiên, thế nên, những vũ điệu từ thời xa xưa lưu truyền lại này, bất kể là chủng tộc gì, khu vực nào, cũng đều có những nét tương tự đến kinh người. Đây là cách lý giải của tôi, các cậu thấy thế nào?"
Trương Lập nói: "Ừm… có lý đấy, tôi tán thành phân tích này của anh."
Nhạc Dương lại phát biểu ý kiến bất đồng: "Nói như vậy hình như hơi miễn cưỡng thì phải. Tôi nghe nói, người Tạng trước đâu cũng là một dân tộc theo thuyết đa thần, bộ tộc Kukuer cũng có rất nhiều thần linh, lễ nhảy thần của họ lại giống với lễ nhảy thần của Tây Tạng như thế, dựa vào điểm này, có chắc là họ không có quan hệ gì với Tây Tạng không nhỉ?"
Trương Lập phì cười nói: "Cậu đúng là biết liên tưởng, phải biết rằng bây giờ chúng ta đang ở đâu chứ, là Nam Mỹ cách Trung Quốc Đại lục hai mươi ngàn kilomet đấy. Bộ tộc Kukuer này lạ là thổ dân sống ở đây từ bao đời, lại cư trú ở vị trí địa lý thế này, gần như là không có tiếp xúc với thế giới bên ngoài, cậu nói họ và Tây Tạng có quan hệ, chứng cứ ở đâu chứ?"
Nhạc Dương xòe hai tay ra, nói: "Bằng trực giác."
"Phì." Trương Lập khoát tay một cái, tỏ vẻ coi thường không thèm quan tâm nữa.
Nhưng sau đó Nhạc Dương lại bổ sung: "Từ trước khi chúng ta chuẩn bị xuất phát, bắt đầu là câu nói kỳ quái của giáo quan, sau đó là chúng ta chẳng hiểu sao lại bị quân du kích và bọn buôn ma túy đuổi giết, tiếp theo là gặp được một số thứ hình như có liên quan tới Tây Tạng ở bộ lạc nguyên thủy này, những điều này làm tôi không sao hiểu nổi. Phía sau những sự việc tưởng chừng như riêng rẽ này, hình như có liên hệ gì đó, trực giác cho tôi biết, chuyến đi này của chúng ta, không đơn giản chỉ là băng qua rừng rậm thôi đâu, nhất định là có thứ gì đó, thứ gì đó mà chúng ta không biết."
Trác Mộc Cường Ba giật mình, trực giác của Nhạc Dương hoàn toàn không đơn giản chỉ là dựa vào cảm giác để đưa ra kết luận, mà được đưa ra dựa trên một tư duy logic tinh tế tỉ mỉ. Nghe Nhạc Dương nói như vậy, gã cũng sinh lòng hồ nghi, vậy thì, trò chơi gã thấy lũ trẻ chơi hôm qua là thế nào, vùng đất này, lẽ nào thực sự có liên quan tới Tây Tạng?
Babatou trợn tròn mắt, hiếu kỳ nhìn hai người đang lầm rầm nói chuyện, lên tiếng nhắc nhở: "Tập trung xem đi, ít nói thôi, đây là lễ tế quan trọng của người ta đó."
Kế đó là Hành trình di cư, một người Kukuer đóng giả làm ông già, trên lưng vác một cái bao to tướng tượng trưng cho trọng lượng nặng nề, bắt đầu đi vòng xung quanh vũ đài, tất cả người Kukuer có mặt đều đứng lên, đi theo sau lưng ông già đó, bọn Trác Mộc Cường Ba cũng đứng lên đi theo, Babatou giải thích, tiết mục này nói lên tổ tiên họ năm xưa vì muốn tìm kiếm vùng đất an cư đã phải bôn ba vô cùng vất vả, tất cả người Kukuer đều sẽ không bao giờ quên, cuộc sống hôm nay là do vô số bậc cha ông đã dùng máu và tuổi xuân đổi lấy cho họ.
Đi quanh bốn vòng, hoạt động mang tính toàn bộ tộc này cũng kết thúc. Phần thứ ba là màn chiến tranh, chỉ thấy hai nhóm người Kukuer đeo các mặt nạ tô màu khác nhau, biểu thị cho hai bộ tộc, mở đầu là người bộ tộc khác đeo mặt nạ màu đen thắng thế, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ liên tiếp bại trận rút lui, đúng lúc đó, một người Kukuer đeo mặt nạ tượng trưng cho thầy tế đứng ra, trịnh trọng lấy ra một mảnh vỏ cây tượng trưng cho lời dạy của thần thánh, lớn tiếng đọc vang, trong tiếng đọc đó, một thiếu nữ Kukuer được khiêng ra.
Thiếu nữ Kukuer này toàn thân không một mảnh vải, trên mặt vẽ hoa văn màu đen, được đặt xuống một bàn gỗ tượng trưng cho đàn tế, nét mặt cô có vẻ vô cùng hạnh phúc và vinh hiển. Những người Kukuer đeo mặt nạ đỏ dùng dao vạch ngang vạch dọc bên trên cơ thể thiếu nữ, sau đó đặt đủ loại hoa quả màu đỏ, quả hạch và ngũ cốc lên ngực, hông và tay chân cô, một lúc sau, họ lại lấy các thứ đó xuống, chia cho những người đeo mặt nạ đỏ khác cùng ăn.
Nhạc Dương kinh ngạc thốt: "Người Kukuer cũng biết trò này à, hình như đây là Nyotaimori (2) của người Nhật mà?"
Lần này đến lượt Trương Lập hỏi: "No no cái gì? Nyotaimori? Là cái gì thế?"
Nhạc Dương thè lưỡi nói: "Cái này, cái này… ây da. Đằng nào thì cũng gần giống như anh đang xem đây này."
Babatou giải thích, những hoa văn màu đen vẽ trên mặt đó tượng trưng cho việc cô gái đã được chọn làm tế phẩm của thần, đó là một việc hết sức vinh hạnh. Tương truyền, rất lâu, rất lâu trước đây, thiếu nữ đó phải hiến lên thần linh cả máu tươi và sinh mạng của chính mình, không biết từ bao giờ, nghi thức này đã dần dần biến hóa thành như ngày hôm nay.
Những người đeo mặt nạ đỏ ăn uống xong liền xông ra tái chiến với người đeo mặt nạ đen, lần này, người Kukuer đeo mặt nạ đỏ như có thần linh phù trợ, uy lực tăng cao, chẳng mấy chốc đã đánh cho lũ người ngoại tộc đeo mặt nạ đen tơi bời hoa lá, bỏ cả vũ khí giáp trụ chạy trối chết.
Nhạc Dương nhìn đoạn biểu diễn đó, bỗng thấy chấn động trong lòng. Điệu múa nguyên thủy vụng về đơn sơ ấy, tiếng nhạc tràn đầy tiết tấu ấy, những hoa quả ngũ cốc màu đỏ mà các chiến sĩ Kukuer đặt trên thân thể thiếu nữ kia trong tiết mục chiến tranh giản hóa ấy, dường như ẩn dụ một điều gì đó. Anh không dám khẳng định, nhưng cứ có cảm giác, ẩn dụ ngầm ấy, làm sống lưng anh lạnh toát.
Còn một người nữa cũng cảm thấy kinh hãi, đó chính là Batang đang ngấm ngầm nắm chặt tay ngồi bên cạnh, chỉ là hình thức của điệu múa không làm anh ta chấn động là mấy, thứ làm Ba Tang thấy bất an và căng thẳng là tiếng trống và tiếng gõ kia, tiết tấu gấp rút tựa hồ như chiến đấu kia mang đến cho anh ta cảm giác sợ hãi. Anh ta biết, có lẽ trong sâu thẳm ký ức, mình đã từng nghe âm thanh đó rồi, nhưng là lúc nào, ở nơi đâu, thì anh ta không muốn và cũng không thể nhớ lại được.
Tiếp theo sau là bắt đầu lễ chúc mừng của toàn bộ tộc, mọi người đều tham gia, bắt đầu nhảy múa hát ca, nam nữ già trẻ cùng cất tiếng hoan ca, Nhạc Dương và Trương Lập không kìm nổi mà cuống quýt nhảy lên vũ đài, hòa vào đám người Kukuer kia. Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh, cũng cảm nhận được lòng nhiệt tình dào dạt và niềm vui phấn khởi của họ.
Phía xa xa, có mấy thợ săn Kukuer đang lùa một con vật đeo vải đỏ, trông như con dê, chắc có lẽ là lạc đà không bướu châu Mỹ. Người đầu tiên cầm cốc gỗ, dùng cành cây nhúng nước vẩy mở đường, miệng lẩm nhẩm tụng niệm gì đó, một người lực lưỡng mình trần tay cầm vũ khí bằng sắt, cơ hồ như đợi để mổ bụng moi ruột con vật. Trác Mộc Cường Ba hỏi Babatou: "Họ làm gì vậy?"
Babatou mỉm cười: "Phóng sinh, vừa để chúc mừng buổi lễ, vừa chúc mừng anh khỏi bệnh luôn!"
"Ồ," Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn, cảm thấy cảnh tượng này hết sức quen thuộc, tựa như đã thấy ở đâu rồi vậy. Ai ngờ người đàn ông mình trần kia cầm vũ khí, lại đâm thẳng vào ngực con vật trông giống dê kia một cách hết sức chuẩn xác, máu tươi lập tức phun trào ra, rõ ràng là đã đâm thẳng vào tim con vật rồi. Con vật bị mấy người Kukuer giữ chặt tứ chi, không thể giãy giụa, co rút mấy cái rồi lăn ra chết. Nhìn cảnh tượng đó, Trác Mộc Cường Ba sực nhớ ra, đây hình như là một màn pháp sự, ngày trước ở Tây Tạng, gã đã từng thấy cảnh tượng tương tự như vậy rồi. Lẽ nào, giữa các nền văn inh nguyên thủy, đúng là có sự tương đồng đến mức đáng ngạc nhiên như vậy hay sao? Đây rốt cuộc là chuyện gì? Trác Mộc Cường Ba không kìm được, liền hỏi: "Không phải là phóng sinh à? Sao lại…"
Babatou giải thích: "Phóng sinh theo cách hiểu của chúng tôi, là giải thoát triệt để. Trước tiên là mở ra hố sinh mệnh của con lạc đà không bướu đó, tức là tim, sau đó là cắt đứt động mạch, lột da rồi pha thành miếng nhỏ, đặt vào các đồ đựng khác nhau, dựa theo vị trí trên cơ thể mà phân thành đẳng cấp một cách nghiêm khắc, rồi dùng ba thanh gỗ bắc thảnh giá để nấu lên, đêm nay sẽ có nghi thức mời khách, mọi người sẽ hát bài ca cảm tạ với anh. Anh xem, mọi người đều đến cả rồi kìa."
Người Kukuer vừa ca vừa múa, vô cùng náo nhiệt, bọn họ mang những món ngon nhất ra khoản đãi ân nhân của thủ lĩnh, dùng những lễ nghi long trọng nhất để chúc phúc cho Trác Mộc Cường Ba.
Tối hôm ấy mọi người vừa uống rượu, vừa nghe nhạc nhảy múa, Nanh Sắc rót mười bát rượu, chìa tay ra với Trác Mộc Cường Ba. Trác Mộc Cường Ba chỉ cười nhạt, mặt không đổi sắc uống một mạch hết cả mười bát rượu ấy, làm Nanh Sắc lấy làm kinh ngạc. Anh ta vốn định nói, mỗi người năm bát, vừa để bày tỏ lòng hữu hảo, đồng thời cũng có ý phân cao thấp thêm lần nữa, chẳng ngờ Trác Mộc Cường Ba lại một mình uống cả mười bát, hơn nữa lại còn điềm nhiên như không, bản lĩnh này, anh ta tự biết là mình không bì nổi. Mà người Kukuer thì cứ ai uống được rượu tức là anh hùng, Trác Mộc Cường Ba tự nhiên lại được vẻ vang thêm lần nữa. Babatou rót rượu cho gã, trong mắt cũng ánh lên ý đồ riêng. Song họ nào có biết, chưa tính đến chuyện Trác Mộc Cường Ba là người tộc Tạng, chỉ riêng việc gã bao năm lăn lộn trên thương trường thôi, mười bát rượu đó đương nhiên chỉ là chuyện nhỏ. Lát sau, trên bàn tiệc, Nanh Sắc vô cùng thành khẩn mời bọn Trác Mộc Cường Ba ở lại bộ lạc thêm mấy ngày, gọi bọn gã là những vị khách tôn quý nhất của người Kukuer, Babatou cũng tỏ ý đó, nhưng Trác Mộc Cường Ba đều khéo léo khước từ.
"Tại sao lại đi gấp như vậy?" Không chỉ có Babatou ỉu xìu thất vọng, đến cả Trương Lập và Nhạc Dương cũng xị mặt ra.
Trác Mộc Cường Ba thành thực trả lời: "Thực ra mục đích chuyến đi lần này của chúng tôi, chỉ là băng qua khu rừng này, để lấy kinh nghiệm cho đợt huấn luyện sinh tồn nơi hoang dã mà chúng tôi tham gia thôi. Còn việc thành ra nông nỗi này, đến cả chúng tôi cũng chưa từng nghĩ tới. Thời gian định ra ban đầu chỉ có mười ngày, giờ đã qua mất một nửa, chúng tôi lại lỡ mất hai ngày ở đây nữa, giờ vết thương đã lành rồi, chúng tôi cần phải nhanh chóng lên đường mới bổ sung lại được thời gian bị chậm trễ."
Nhạc Dương đứng bên cạnh nhắc nhở: "Nhưng mà, quân du kích đang rình rập xung quanh lãnh địa của người Kukuer, chỉ đợi chúng ta ra khỏi đây thôi đấy."
Trương Lập cũng nói: "Đúng đấy, lần này chẳng biết là chúng ta tiếp nhận huấn luyện kiểu gì nữa, bị quân du kích và bọn buôn ma túy bắt tay đuổi đánh, đừng nói là chúng ta, dù là bộ đội đặc chủng chính quy chăng nữa, cũng chưa chắc mà bình yên rút lui được đâu. Muốn băng rừng trong mười ngày hả, tôi thấy chẳng thể nào đâu, hay là chúng ta cứ ở đây, chờ cho hết mười ngày, chắc là họ sẽ tới tìm chúng ta thôi, nếu không thì lúc ấy liên lạc với họ cũng được, coi như chúng ta lại thất bại lần nữa có sao đâu."
Trác Mộc Cường Ba vừa nhíu mày, Ba Tang đã cười gằn lạnh lẽo: "Hừ, đây mà giống lời của sĩ quan đặc cảnh nói ra à. Mục đích của đợt huấn luyện này, chính là để chúng ta đối mặt với các hoàn cảnh nguy hiểm, cũng bao gồm cả chuyện chiến đấu với kẻ địch, bỏ cuộc như vậy, không chỉ đại diện cho một lần thất bại, mà còn nói lên rằng tất cả các nội dung huấn luyện đều uổng phí cả, rằng chúng ta căn bản không có cơ hội để đối đầu với những thách thức khó hơn nữa, cậu có hiểu không?"
Trương Lập phản bác: "Nhưng giờ cả vũ khí cơ bản chúng ta cũng chẳng có, chúng ta lấy gì để chiến đấu với đám quân du kích đó đây? Lần này bị thương, còn có người Kukuer giúp chúng ta, vậy còn lần sau thì sao? Lần sau anh hay Cường Ba thiếu gia hoặc người khác, bao gồm cả tôi và Nhạc Dương, chúng ta ngã xuống lần nữa, liệu còn may mắn như lần này nữa không?"
Babatou lúng túng nhìn bốn vị khách, sao họ càng nói càng hăng, chừng như sắp đánh nhau tới nơi thế kia. Trác Mộc Cường Ba cất tiếng: "Được rồi, được rồi. Không có gì phải tranh luận nữa, lấy ít thắng nhiều, xoay chuyển tình thế, tay không chiến đấu giữa vòng hỏa lực trùng trùng của kẻ địch, đây cũng là một trong các hạng mục huấn luyện của chúng ta. Trước giờ chúng ta vẫn được huấn luyện kỹ năng sinh tồn nơi hoang dã, chính là phải dựa vào đôi tay này tạo ra hoàn cảnh thích hợp cho mình sinh tồn ở môi trường hoàn toàn xa lạ. Không thể nào vác vũ khí đi khắp nơi được, chúng ta phải dựa vào… cái đầu mình nhiều hơn nữa chứ. Lần này tình thế bất lợi đối với chúng ta, ai bảo chúng ta phải so vũ khí nhiều với quân du kích đâu chứ? The tôi được biết, bộ tộc Kukuer, chẳng phải còn có lối đi sau có thể ra vào hay sao?" Câu cuối cùng, gã cố ý nói bằng tiếng Anh cho Babatou nghe.
Babatou lắp bắp thốt lên: "Cái đó, thì đúng rồi, nhưng mà chỗ ấy, chỗ ấy làm sao đi qua được chứ? Chỗ ấy đã được gọi là cấm địa yên nghỉ của Ah puch đấy."
Nhạc Dương nói: "Thật sự phải đi đường đó sao? Đấy hình như là khu rừng chết mà hình như cả người Kukuer cũng bị cấm đi vào cơ mà?"
Trác Mộc Cường Ba hỏi: "So với rừng rậm nguyên sinh có quân du kích vũ trang lập trạm canh, cậu thấy lối nào nguy hiểm hơn?"
Ba Tang nói: "Đều rất nguy hiểm, theo những ghi chép lịch sử của người Kukuer, từ thế kỷ mười sáu, người Tây Ban Nha, nhà khảo cổ người Đức, thám hiểm gia người Mỹ, bao nhiêu người bước vào khu rừng đó mà không một ai trở ra cả, đó à rừng Than Thở, được mệnh danh là mộ phần của các nhà thám hiểm. Lần cuối cùng là vào năm 1965, nhà thám hiểm người Anh Malaer đã đặt dấu chấm hết cho cuộc đời mình ở trong khu rừng ấy."
Trác Mộc Cường Ba vỗ vỗ lên vai Ba Tang cổ vũ tinh thần: "Chẳng sao cả. Đừng quên bây giờ là thế kỷ hai mốt, giờ đây khoa học kỹ thuật mỗi ngày mỗi khác, người năm một chín sáu mấy có thể không qua được, nhưng cũng không chứng tỏ rằng chúng ta không vượt qua được."
Ba Tang liếc xéo Trương Lập và Nhạc Dương: "Tôi thì chẳng sao cả."
Trác Mộc Cường Ba đưa mắt nhìn Trương Lập, Trương Lập cúi đầu không nói, lại quay sang nhìn Nhạc Dương, Nhạc Dương nghĩ giây lát, rồi đáp: "Chết thì chết, ai bảo anh là đội trưởng." Trác Mộc Cường Ba mỉm cười, nói: "Được, cứ quyết định như vậy đi."
Nanh Sắc nhờ em gái phiên dịch, nói: "Nếu mọi người đã quyết ý muốn đi, chúng tôi cũng không thể miễn cưỡng, đêm nay chúng ta cứ uống cho thoải mái no say đi, thần Chac sẽ bảo vệ cho các bạn."
"Nào, cạn ly!"
…
Chú thích:
(1) Khương mẫu: Một điệu múa truyền thống của người Tạng, các từ "nhảy thần", "nhảy đại thần", "nhảy nợ" đều chỉ loại hình nghệ thuật này. Các phái khác nhau của Phật giáo Tạng truyền đều có nội dung "khương mẫu" của riêng mình, tuy có khác nhau, nhưng nội dung chủ yếu đều phản ánh tâm lý sùng bái tự nhiên của người cổ đại.
(2) Hay còn gọi là body sushi, là cách bày món ăn truyền thống của Nhật Bản, trực tiếp bày đồ ăn lên mình một geisha khỏa thân.
Trò chuyện trên đàn tế
Sau đêm cuồng hoan, tiếng ca tiếng hát cũng dứt, mọi người tản đi, Babatou dẫn Trác Mộc Cường Ba lên đàn tế, bầu trời vẫn đầy sao sáng lấp lánh, chỉ có vầng trăng là ảm đạm đi phần nào. Vị công chúa cao quý xõa mái tóc dài mềm mại, hai tay bó gối ngồi cuộn giữa đàn tế, ánh mắt hân hoan như đứa trẻ, cô ngước lên nhìn bầu trời lồng lộng nói: "Hồi nhỏ, tôi thường một mình lên đàn tế này ngắm sao. Những ngôi sao kia nhìn có vẻ rất xa xôi, lại như ở gần tôi lắm. Lúc đó, tôi thường hay băn khoăn tự hỏi, thế giới bên ngoài rừng già, rốt cuộc là như thế nào. Nhưng khi ấy tôi vẫn còn chưa dám có suy nghĩ viển vông như thế, rời khỏi rừng già ra thế giới bên ngoài, quả thực là một việc mà cả nghĩ đến tôi cũng không dám nữa. Về sau, người bên ngoài vào rừng càng lúc càng nhiều, có bọn buôn ma túy muốn mượn đường đi qua lãnh địa của chúng tôi, quân du kích thì ky vọng hai bên tránh được xung đột, còn có cả một số người thích mấy loài mà các anh gọi là động vật hoang dã quý hiếm. Tôi nghe được rất nhiều chuyện về thế giới bên ngoài từ họ, có nhà cao trăm tầng, có máy bay bay lượn, thậm chí còn có người lên cả vũ trụ nữa, nghe nói còn bay thẳng tới tận mặt trăng nữa cơ."
Nói đoạn, Babatou ngoảnh đầu lại nhìn Trác Mộc Cường Ba, thấy gã đang chăm chú lắng nghe, cô lại nói tiếp: "Năm mười sáu tuổi, chồng tôi chết trong rừng, theo cách nói của người trong bộ tộc, anh ta đã chọc giận thần rừng, có trời mới biết anh ta chết thế nào. Nhưng lúc ấy cha tôi đã nói một câu, ông bảo là, sinh ra ở rừng, lớn lên trong rừng, chết ở trong rừng, đây là kết cục tốt nhất của một con người. Khi người đàn ông ấy được khênh trở về, nửa người đã đen kịt rồi, đó là lần đầu tiên tôi khiếp hãi đến thế. Tôi đột nhiên muốn rời khỏi đây, chưa bao giờ tôi khát khao rời khỏi đây đến thế cả, nhưng quy củ trong tộc là không được tộc trưởng đồng ý thì không được phép làm điều đó. Tộc trưởng, cũng chính là cha tôi, ông ấy có quyền lực đó, nhưng ông kiên quyết không chấp nhận." Ánh mắt Babatou ánh lên một tia cuồng dại, "Sau đó, tôi tìm một người đàn ông tới đây thu mua động vật hoang dã, ngủ với hắn hai đêm, chỉ cần một điều kiện, là hắn sẽ dẫn tôi đi, đi khỏi khu rừng này, khu rừng nhìn mãi không thấy tận cùng đáng chết này! Hắn đáp ứng nhanh lắm, nhưng đến cuối cùng hắn lại hối hận, hắn muốn giết chết tôi rồi bỏ lại trong rừng, rồi cướp hết trang sức trên người tôi, nhưng đã bĩ anh trai tôi bắn chết. Về sau, cha tôi thấy nợ tôi, mới đồng ý cho tôi ra khỏi rừng, đầu tiên họ đưa tôi tới Santa Fe de Bogotá (1) học hành, sau rồi lại sang Mỹ. Thực ra, cha tôi cũng có thể coi là một tộc trưởng văn minh, ông ấy nói, thế giới bên ngoài đang thay đổi, bộ tộc chúng tôi muốn tiếp tục sinh tồn, thì cần phải biết nhiều hơn nữa. Ông ấy mong tôi học thành tài trở về, có tể mang đến cho bộ tộc những thay đổi lớn, thế nhưng…"
Cùng một tiếng thở dài, đàn tế chìm vào tĩnh lặng một lúc lâu, Trác Mộc Cường Ba cảm nhận được nỗi buồn u uất của cô gái trước mặt mình, đảm nhiệm sứ mệnh thay đổi vận mệnh của cả một bộ lạc, đối với bất kỳ ai, cũng là một trọng trách quá ư tàn khốc, huống hồ là một cô gái còn trẻ như vậy. Babatou nói: "Tôi sợ lắm, ở bên ngoài càng lâu tôi lại càng sợ. Bởi tôi biết rất rõ, tôi không có khả năng thay đổi bất cứ điều gì, muốn thay đổi cả một bộ lạc, muốn thay đổi thói quen sinh sống và văn hóa mấy ngàn năm nay của chúng tôi, điều ấy quả thật quá khó khăn. Bộ tộc muốn có những bước phát triển mới, thì cần phải rời khỏi rừng già, nhưng một khi rời khỏi rừng già, bộ tộc này sẽ chẳng còn ý nghĩa tồn tại nữa rồi, từ bao lâu nay tôi vẫn không biết phải làm thế nào. Ra đi mười năm, trở về bộ lạc lại nhận ra mọi người vẫn sống lối sống lạc hậu ấy, sau này, mỗi lần thấy không thuận mắt, tôi lại một mình lẻn đi, đây cũng chính là nguyên nhân anh thấy tôi và anh trai tranh chấp lần trước. Họ muốn tôi trở về, còn tôi thì không chịu, theo quy tắc trong bộ tộc, kha kha, tôi không thể cưới người nào nữa rồi."
Babatou lại ngẩng đầu lên ngắm sao, dưới hàng lông mi dài kia, sao trời lấp lánh trong mắt cô: "Lúc tôi đi học, cũng có mấy người bạn trai, nhưng họ vừa nghe thấy tôi là con gái của tộc trưởng bộ lạc, người nào người nấy đều hồn vía lên mây. Tôi nhớ nhất là có một anh chàng, anh ta kinh hoảng hỏi tôi, nghe nói có bộ lạc, sao khi nam nữ giao hoan, người đàn bà sẽ ăn thịt người đàn ông, có phải thật thế không? Ha ha, đúng là tức cười thật, đến cả tôi còn chưa nghe nói đến cái bộ lạc ấy cơ mà."
Babatou cười cười, trong mắt cô, vẻ u buồn dường như càng hiện lên rõ hơn, cô bỗng nhiên đứng dậy, xoay một vòng, làn da trơn láng như gấm sa tanh, dưới ánh trăng càng như một khối ngọc, mái tóc mềm như dải ngân hà lả lướt, đôi mắt xinh đẹp và ngũ quan thanh tú, tất cả tạo nên một gương mặt quyến rũ tựa ánh trăng ngời. Gò ngực tròn đầy đặn kiêu ngao dựng đứng lên dưới ánh trăng, khe khẽ rung nhè nhẹ, làn da căng mọng không có lấy một chút mỡ thừa. Bất kể là từ góc độ nào, cô cũng đều lồ lộ ra một sinh mệnh trẻ trung mà tràn đầy sức sống, một đóa hoa tươi đang nở rộ. Babatou nheo nheo mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, hỏi: "Tôi có đẹp không?"
Trác Mộc Cường Ba gật gật đầu, mặc dù không lên tiếng khen ngợi, nhưng ánh mắt gã đã ngợi khen rồi. Chỉ thấy Babatou uất ức, như một cô bé hờn dỗi: "Nếu tôi gặp được người đàn ông có thể gửi gắm cả đời, tôi sẽ cùng người đó rời xa chỗ này, không bao giờ trở lại rừng già nữa. Lúc nào tôi cũng nghĩ thế, lúc nào cũng vậy."
Cùng với hơi thở, lồng ngực cô không ngừng bập bềnh lên xuống, Trác Mộc Cường Ba ra hiệu bảo cô ngồi xuống, Babatou lại ôm gối ngồi xuống sát bên gã, dưới ánh trăng, đôi mắt thông minh của cô tựa hai làn thu thủy dập dờn. Cô dõi mắt nhìn xuống bên dưới đàn tế, nơi đó, hơn trăm mái nhà cỏ đang nằm lặng lẽ, đó là toàn thể bộ tộc của cô, trên vai cô đang là sứ mệnh thay đổi vận mệnh của họ. Trác Mộc Cường Ba nhất thời cũng không biết nên nói gì mới phải, an ủi người khác vốn không phải là sở trường của gã, đành chỉ còn biết cùng Babatou chìm đắm trong trầm mặc lặng im. Đêm về khuya, làn gió đêm dịu nhẹ phất phơ mái tóc ai, sao trời nhấp nháy, ánh trăng trắng như tuyết kia đang phủ lên bờ vai ai. Toàn thân Babatou đều được ánh trăng bao bọc, tóc đen như màn đêm, da trắng như vầng nguyệt, cô dường như đã hóa thành một vị nữ thần đang trầm ngâm suy tư, khiến người ta chỉ có thể đứng mãi phía xa mà ngắm nhìn bằng ánh mắt sùng kính. Hơi men lại dâng lên đến tận đầu Trác Mộc Cường Ba, lờ mờ không hiểu vì ai mà say đắm.
Ở nơi trời đất cùng tan chảy ấy, duy chỉ có không gian của nữ thần Mặt trăng là thấp thoáng vang lên âm điệu, tiếng ca đó u oán sầu thương, tựa loài đỗ quyên khóc ra máu, chim hoàng oanh tặng con, khiến người ta nghe mà mềm lòng. Phảng phất như thể một nỗi đau thương từ chốn thiên đàng, đủ để khơi dậy nỗi đau nơi sâu thẳm nhất trong linh hồn người ta. Trác Mộc Cường Ba mê mêm mang mang, cảm giác như trái tim mình cũng bị tiếng ca ấy níu đi, lúc thì hụt hẫng, lúc lại cảm thương, dù không rung động đến nỗi phải khóc thương buồn thảm, nhưng cánh cửa ký ức bị hóa chặt trong nơi sâu thẳm nhất của linh hồn gã, đã bị từng tiếng ca bi tráng thê lương đó, dễ dàng đập nát.
Trác Mộc Cường Ba giật mình sực tỉnh khỏi cơn mộng ảo, thì ra là Babatou đang thấp giọng khe khe hát, dù gã không hiểu ca từ, nhưng âm nhạc vốn không biên giới, đâu nhất định là phải nghe ca từ mới được. Tiếng hát ấy, lúc tựa như gió nhẹ thổi qua rừng rậm, lúc lại như tiếng suối róc rách chảy qua hang núi, lúc như ngàn quân vạn mã sục sôi chiến đấu, lúc như lời rì rầm thân thiết dưới ngàn sao lấp lánh. Trác Mộc Cường Ba im lặng lắng nghe, phảng phất như hiểu được ý nghĩa trong đó, dài dòng như sử thi, bỉ tráng như sử thi, hỉ nộ ai lạc của nhân gian, đường đời đằng đẵng của con người, dường như tất cả đều dập dềnh chìm nổi trong tiếng ca kỳ diệu ấy.
Tiếng ca thấp dần, cuối cùng khúc điệu thay đổi, tựa như khúc nhạc ru con, cảm giác ấy, tựa hồ một người vừa trải bao hiểm nguy, toàn thân mệt mỏi rã rời, cuối cùng cũng trở về trong lòng mẹ. Thư thái, an tâm, không cần phải giả tạo bất cứ điều gì, cũng không tìm được nửa phần hư giả, có thể hoàn toàn thả lỏng, nhắm mắt ngủ một giấc dài. Không biết từ khi nào, Babatou đã ngừng hát, nhưng trong tai Trác Mộc Cường Ba, âm thanh ấy dường như vẫn đang bay bổng trên chín tầng trời, cộng hưởng với mặt đất bao la, âm thanh ấy tựa hồ Phạn âm của chốn Tây Thiên, khiến linh hồn con người ta được thanh tẩy hoàn toàn triệt để.
Trái tim Trác Mộc Cường Ba, chưa bao giờ đập mạnh đến thế, mãi hồi lâu cũng không sao trở lại bình thường được. Babatou lên tiếng nói: "Chỉ khi nào hát bài này, tâm trạng tôi mới đỡ hơn một chút, bao nhiêu phiền não u uất trong lòng đều theo tiếng ca mà tan biến."
Trác Mộc Cường Ba lấy lại bình tĩnh, hỏi: "Đây là bài hát gì?"
"Là thánh ca của chúng tôi." Babatou tự hào đáp, "tổ tiên chúng tôi, mang nguồn gốc bộ tộc Kukuer, lịch sử huy hoàng của bộ tộc Kukuer, hòa thành lời ca truyền lại cho con cháu."Trác Mộc Cường Ba đã qua tuổi gặp chuyện gì cũng hiếu kỳ, song lần này, gã vẫn không cầm lòng được, cất tiếng hỏi: "Bài ca này, là bài ca lịch sử của bộ tộc Kukuer các cô à? Có thể cho tôi biết nội dung được không?"
Babatou nhoẻn miệng cười tươi tắn: "Đương nhiên là được, nhưng mà dài lắm đấy." Cô bỗng cúi đầu buồn nản: "Cũng tốt, đằng nào sáng mai anh cũng phải đi rồi, nếu không nghe hết cả bài hát này, e rằng cũng là một điều đáng tiếc."
Lịch sử của bộ tộc Kukuer tái hiện như mộng ảo trong tiếng ca, lịch sử của họ bắt nguồn từ bóng đêm: "Bước ra từ bóng đêm, sinh sống trong hang động, khu rừng đen tối che mất ánh sáng mặt trời, bầu sữa mẹ hóa thành dòng sông lớn…" Đây là một dân tộc yêu rừng sâu, yêu hòa bình, tổ tiên họ sống ở tít sâu trong rừng rậm và các hang động, hữu hảo hòa thuận với các động vật trong rừng, được chư thần ban ơn cho đồ ăn và lửa. Thời gian trôi qua trong tĩnh lặng và hòa bình, không ai thiếu thốn đồ ăn thức uống cả, cây cỏ lương thực tốt tươi, thu hoạch đầy đặn, thế nhưng, "Lũ ác ma phương Bắc, bọn chúng mang đến tội ác, chiến tranh, bệnh dịch và đói khát, bọn chúng nhiều như sao trên trời, bọn chúng chỉ biết chém giết, chém giết không biế mệt mỏi…" Trong trận chiến đó, tổ tiên người Kukuer hoàn toàn không có sức kháng cự lại. Trong thời khắc nguy cấp quyết định sự tồn vong của dân tộc, thần Nadimuke đã chỉ lối đưa đường cho họ, bảo họ hãy đi về phía Nam, trong rặng núi phủ đầy rừng rậm ở phương xa, có một vùng đất bằng, nơi đó rừng cây rậm rạp, nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ, không có nhiều đầm lầy khiến người ta sợ hãi, cũng không phải lân cơn sốt vì bệnh dịch, hoặc run rẩy vì đau đớn. Vậy là, những người Kukuer mang theo vết thương chiến tranh, bắt đầu hành trình di cư bi tráng của mình, dùng máu tươi của muôn ngàn người tưới đẫm mặt đường, tìm kiếm mái nhà tương lai của mình. "Vượt qua chín trăm chín mươi chín ngọn núi màu trắng, băng qua chín mươi chín vạn con sông… mặt trời đỏ như máu treo trên bầu trời, trên tán cây xanh lục là mây đen vần vũ… trong rừng không dấu chân người, vô số người đã chết vì đói khát… người trẻ tuổi đều đã chết vì già, lũ trẻ con cũng biến thành những ông bà tóc bạc da mồi, chúng tôi chưa bao giờ dừng lại, một giây một khắc cũng không dừng…"
Chương trước | Chương sau