Giáo sư Phương Tân chau mày nhìn bức thư điện tử vừa nhận được, bức thư này do một người bạn nước ngoài gửi đến, bức thư viết: "Tôi giúp anh điều tra về người tên Hahn đó rồi, đoán xem hắn ta làm gì nào? Hắn ta là thành viên của Ủy ban Dị năng dưới trướng Himmler, về sau quân Đức chiến bại, tên này bị quân Mỹ bắt đi. Anh xem tấm ảnh này đi, đây là tờ Thời báo Washington năm 1945, người bên phải chính là Hahn, lúc đó bọn họ đang được cơ quan truyền thông phỏng vấn, anh biết hắn ta nói gì không: "Bom nguyên tử là cái quái gì, chúng tôi đang nghiên cứu thứ còn lợi hại hơn bom nguyên tử gấp trăm lần!" Anh biết hắn sang Mỹ đảm nhiệm công việc nghiên cứu gì không? Vũ khí sinh hóa đấy. Sau đó, tôi lại lần theo một đầu mối khác, rốt cuộc cũng tìm hiểu được một số việc, thì ra Himmler kiếm được ở Tây Tạng một cái hộp, ban đầu đám người Hahn chính là nghiên cứu cái hộp này, nghe nói các trại tập trung, rồi các thí nghiệm độc ác trên cơ thể người sau đó, đều có liên quan đến cái hộp này. Tôi không biết rốt cuộc bọn họ muốn nghiên cứu vũ khí sinh hóa gì, làm sao lại lợi hại hơn bom nguyên tử gấp trăm lần được. Thêm một chi tiết nữa là Hitler từng tàng trữ rất nhiều máu của chính ông ta, tôi đoán, có thể ông ta muốn chế tạo huyết thanh hoặc vác xin gì đó…"
bạn đang xem “Mật Mã Tây Tạng ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!Thần sắc giáo sư Phương Tân càng lúc càng thêm nặng nề, ông dụi tắt điếu thuốc cuối cùng, chíu chặt hai hàng lông mày, trong lòng thầm nhủ: "Chúng ta … rốt cuộc đang tìm cái gì vậy, Cường Ba…"
Bên cạnh bức thư điện tử ấy, còn có hai phần tư liệu giáo sư Phương Tân đang mở ra xem, cửa sổ đặt cạnh nhau, bên trái là "Lời tiên tri ngày tận thế của người Maya: tính toán theo lịch của người Maya, năm 2012 công nguyên, loài người sẽ diệt vong, người sống tàn sát lẫn nhau, nhưng kẻ còn lại sẽ tự sát mà chết…" bên phải là, "Lời tiên tri ngày tận thế của Shangri-la: tính toán theo lịch của Đại Thiên Luân Kinh, khoảng năm 2030, Cách Tất Nhĩ Vương vĩ đại sẽ dẫn theo đội quân Hoàng Kim vô địch của ngài trở lại nhân gian, đội quân Hoàng kim đi tới đâu, sẽ thanh tẩy toàn bộ tới đó, tất cả bắt đầu lại từ đầu…"
Ở nơi xa hơn nữa, trong rừng rậm châu Mỹ cách Thượng Hải cả một Thái Bình Dương, một đứa bé trai khỏe mạnh da ngăm ngăm đen đang tiếp nhận nghi thức đầy tuổi dưới dự chứng kiến của mọi người trong bộ tộc. Tù trưởng đích thân vẽ lên má đứa bé hai vành trăng khuyết đại biểu cho hình tượng răng sói, nhưng ông vừa buông tay, đứa bé đã cuống cuồng chạy vụt đi, bước chân loạng choạng hướng về phía trước. Nó khát khao thoát ra khỏi mọi sự ước thúc, nóng lòng chạy về phía rừng già, ôm lấy cả đất trời bao la.
VĨ THANH
Nhiều ngày sau đó, trên khu vực núi tuyết phủ mênh mông của dãy Himalaya, xuất hiện hai bóng người trong bộ da thú, một trước một sau, lầm lũi đội gió tuyết bước đi.
Nơi này sương mù mờ mịt che kín, gió Tây cuồng bạo rít gào, phát ra những âm thanh chói tai, từng đụn tuyết lớn bị gió hất tung lên, hóa thành mù tuyết bay khắp trời, quật vào mặt như những lưỡi dao băng sắc bén.
Từng đụn tuyết trắng xóa liên miên phủ kín hết đỉnh núi này đến đỉnh núi khác, phóng tầm mắt nhìn ra xa, trông như những bậc thang dẫn lên thiên đình, cứ cao dần lên mãi.
"Con bà nó, gió to thật." Merkin dùng mũ da bịt kín mặt mũi nheo nheo đôi mắt xanh, quan sát những ngọn núi cao chập trùng xa xa, y vừa cất tiếng, trong miệng liền phun ra một đám sương trắng, hòa vào sương tuyết mù mịt.
"Nói ít thôi, lên đường nào." Trác Mộc Cường Ba nghiêng người một góc bốn mươi lăm độ so với núi tuyết, ủng da thú bám chặt vào núi đá dưới chân. "Cường Ba, tôi bảo này, nếu chúng ta sống vượt qua núi tuyết này, bước tiếp theo anh định làm gì?"
Trác Mộc Cường Ba ngẫm nghĩ giây lát, rồi nghiêm túc trả lời: "Tôi sẽ đến chùa Sắc Lạp, tìm pháp sư Đan Châu, tiến hành huấn luyện Mật tu một cách chính thống, sau đó, đi tìm em gái tôi!" Khi trả lời câu hỏi của Merkin, Trác Mộc Cường Ba chợt cảm thấy quyển kinh thư giắt ở hông mình nặng trịch. Đó là cuối kinh ngày trước pháp sư Á La giao cho gã, sau khi xong xuôi mọi sự, gã giở ra xem mới phát hiện đó chẳng phải Thánh điển mà Mật tu giả vẫn khổ sở kiếm tìm, mà là một bộ phương pháp huấn luyện của Đạo quân Ánh sáng.
"A .." Merkin phun ra một mảng khí trắng, "anh… anh vẫn muốn tìm em gái à? Anh có biết mình sẽ phải đối địch với thứ gì không? Anh muốn khiêu chiến tổ chức lớn nhất, đáng sợ nhất thế giới sao? Bọn họ có lẽ còn lớn hơn hẳn các đảng phái chính trị, nói không chừng, bọn họ còn khống chế trong tay mấy vương quốc nhỏ, thậm chí, còn khả năng ngay cả nước siêu cường như Mỹ cũng bị bọn họ lũng đoạn đấy. Vả lại… em gái anh… em gái anh…"
"Không, tôi tin em gái tôi, dù nó trải qua chuyện gì, nó vẫn luôn là em gái tôi, tôi sẽ cho nó biết, người thân của nó chưa bao giờ bỏ rơi nó." Trác Mộc Cường Ba nói bằng giọng kiên định quyết liệt.
"Nhưng, đây biết đâu lại là một cái bẫy của Đường Thọ thì sao?" Trác Mộc Cường Ba lấy tấm ảnh ra, bóng lưng mơ hồ kia sau nhiều ngày chăm chú nhìn ngắm đã trở nên thân thiết vô cùng, gã hết sức cẩn thận cất vào sát trong người, nói: "Tôi chưa từng nghĩ mình sẽ làm Chúa Cứu Thế hay gì cả, nhưng là một con người, trong cuộc đời này cũng phải có một số chuyện cần kiên trì, chúng ta gọi thứ ấy là tín nhiệm. Đường Thọ đích thực đã nhìn thấu nhược điểm của tôi, dù đấy có là núi đao biển lửa, tôi cũng sẽ không hề do dự mà nhảy xuống."
Nhất thời không ai nói gì, họ lại leo thêm một đoạn nữa, Trác Mộc Cường Ba nói: "Ông thì sao? Có dự định gì không?"
"Tôi à?" Merkin ngần ngừ nói, "Không biết, có lẽ, tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm, tôi sẽ thử tìm Thành Phố Vàng của người Inca, tôi đã quen với cuộc sống này rồi, mỗi ngày đều vật lộn trên lằn ranh sinh tử, toàn bộ cuộc sống của tôi chỉ có thế. Phải rồi, người đó, anh có định đi tìm ông ta không? Người đó rất có khả năng chính là một nhân vật cấp cao trong Mười ba kỵ sĩ bàn tròn đấy."
Trác Mộc Cường Ba bất giác luồn tay vào trong bọc, bên trong có một tấm thẻ nhỏ bằng thép, xâu vào một dãy kim loại không gỉ. Giã nhớ lại lúc thương thế hai người vừa khỏi, đang chuẩn bị rời khỏi vương quốc loài sói. Sói Út truyền tin A U Chang sắp ra đi cho toàn vương quốc, không ngờ, Vương giả của loài sói lại đích thân tiễn bọn gã lên đường. Phải biết rằng, trong vương quốc sói, địa vị của Trác Mộc Cường Ba chẳng qua chỉ ngang với một con sói bình thường, còn Merkin thì thậm chí còn thấp hơn một bậc.
Lũ sói lùi lại nhường đường, Tử kỳ lân dẫn theo Trác Mộc Cường Ba lên một vùng đất cao. Ở đó, Tử kỳ lân ngồi xuống, giở chân phải phía trước của nó lên. Trong ánh mắt Tử kỳ lân, Trác Mộc Cường Ba nhận ra hình như nó muốn bắt tay với mình. Gã nơm nớp bất an, đặt bàn tay lên chân Tử kỳ lân. Nó khe khẽ lắc tay mấy cái, động tác ấy khiến Trác Mộc Cường Ba không khỏi có cảm giác rất giống những người đi đường bắt tay con chó nhỏ, vừa khẽ lắc lắc, vừa luôn miệng nói: "Xin chào, xin chào, xin chào…"
Kế đó, Tử kỳ lân kéo tay Trác Mộc Cường Ba đặt lên cổ mình. Lông cổ Tử kỳ lân xòe ra như lông bờm sư tử đực, bàn tay Trác Mộc Cường Ba đặt lên đó, cảm giác trơn mượt như vuốt lên một tấm khăn lụa. Gã chưa từng có ý nghĩ, vị Vương giả cao quý của loài sói lại cho phép mình chạm vào cơ thể nó. Nhưng đồng thời, gã cũng biết, Tử kỳ lân tuyệt đối không phải muốn mình vuốt ve nó, lẽ nào nó muốn nói gì? Quả nhiên, Tử kỳ lân nhắc chân phải phía trước lên, ấn bàn tay gã vào sâu trong đám lông bờm, bàn tay Trác Mộc Cường Ba cảm nhận thân nhiệt nồng ấm của Tử kỳ lân, đột nhiên, gã cảm thấy thứ gì đó ở sát da, giống như những hạt kim loại rất nhỏ.
Tay Trác Mộc Cường Ba lần theo hạt kim loại đó, dần dần phát hiện, đó là một chuỗi hạt kim loại. Trên cổ Tử kỳ lân, đeo một chuỗi hạt kim loại ư? Chỉ nghe Tử kỳ lân thấp giọng gầm gừ ra lệnh: "Lấy xuống." Trác Mộc Cường Ba run run tay, không hiểu vì kích động hay vì nguyên do nào khác, gã phải tốn kha khá thời gian mới hoàn thành được nhiệm vụ ấy. Gỡ được chuỗi hạt kim loại ra xem, mới thấy bên dưới còn đeo một tấm thẻ kim loại của quân nhân, thi thoảng vẫn có thể bắt gặp những tấm thẻ như vậy ở tầng bình đài thứ ba này. Chuỗi hạt kim loại kia, cũng là sợi dây để xâu tấm thẻ, nhưng được người ta nối dài ra, có lẽ phải do mười mấy sợi nối lại với nhau mới dài như thế. Tấm thẻ kim loại đã bị mài phẳng, sau đó dùng thứ gì đó khắc lên trên mấy chữ Latinh xiên xẹo. Trác Mộc Cường Ba cơ hồ không dám tin, trố mắt nhìn hàng chữ đó, đọc lên thành tiếng: "Bone!"
Ánh mắt Tử kỳ lân đầy vẻ hân hoan, thậm chí còn khe khẽ phe phẩy cái đuôi. Trác Mộc Cường Ba suýt chút nữa thì ngất xỉu tại chỗ, con Tử kỳ lân này, không ngờ lại có… chủ nhân! Gã dĩ nhiên hiểu được, Tử kỳ lân tuyệt đối không bao giờ vẫy đuôi với mình, chẳng qua, là nó đang tự hào với cái tên ấy, cái tên nó được chủ nhân ban tặng. Trong hiểu biết của Trác Mộc Cường Ba, con Tử kỳ lân này đã là tồn tại mạnh mẽ vô địch rồi, vậy thì chủ nhân của nó, sẽ phải lớn mạnh đến chừng nào chứ?
Trác Mộc Cường Ba nắm chặt tấm thẻ kim loại ấy trong lòng bàn tay, cất tiếng hỏi: "Ngài muốn tôi đi tìm ông ấy, nói với ông ấy, ngài sống ở đây rất tốt, rất nhớ ông ấy? Ngài… đợi ông ấy trở về?"
Tử kỳ lân khe khẽ gật đầu, rồi ngửa cổ, hướng về phía ngoài rặng núi tuyết, phát ra một tiếng hú thấp trầm. Trác Mộc Cường Ba biết, đây là tiếng hú dài biểu đạt lòng nhớ nhung quê hương của loài sói, âm thanh du dương trầm đục, tràn đầy hoài niệm…
Một trận gió lạnh ùa tới, kéo Trác Mộc Cường Ba ra khỏi hồi ức, gã nắm chặt tấm thẻ đó, nói: "Chuyện này càng không có đầu mối gì, tùy duyên thôi."
Sâu trong đáy lòng Merkin, vẫn còn một ý nghĩ khác. "Nếu thực sự có thể sống sót, tìm, thống trị thế giới, đề nghị này cũng không tệ! Đường Thọ, việc ngươi chưa hoàn thành ấy, để ta thay ngươi làm vậy!" Nghĩ đoạn, y ngoảnh sang Trác Mộc Cường Ba bên cạnh, cười cười.
Trong đầu Trác Mộc Cường Ba, thoáng hiện lên nụ cười ngây thơ thuần khiết của em gái, những đoạn không thể xóa nhòa trong ký ức, gã ngẩng đầu nhìn về phía chân trời, đường nét của những ngọn núi nhấp nhô dường như tạo thành một cái đầu sói khổng lồ. Gã lại nhớ lúc trước khi rời khỏi Shangri-la, Sói Hai, Sói Út và bạn đời của nó cùng tiễn mình một đoạn xa, rồi vẫn đứng đó ngẩng đầu nhìn theo bóng lưng mình một hồi lâu.
Bọn họ khó nhọc leo qua một khe núi, phía trước gió tuyết ngợp trời, chỉ thấy một vùng trắng xóa. Trác Mộc Cường Ba biết, vượt qua khe núi này, phía trước lại còn mấy ngọn núi nữa, sau đấy còn những ngọn núi cao hơn, tất cả chẳng qua mới chỉ là sự khởi đầu, chặng đường phía trước vẫn còn rất dài.
Dù sống sót ra khỏi vùng tuyết phủ này thì sao chứ? Phải đối phó với Mười ba kỵ sĩ bàn tròn như thế nào? Em gái lớn lên mặt mũi như thế nào? Pháp sư Đan Châu có thu nhận gã hay không? Phải ăn nói với thầy giáo như thế nào? Những nhân viên trong công ty nuôi luyện chó ngao của gã thì sao? Giữa vùng mênh mang ấy, Trác Mộc Cường Ba phảng phất như nghe thấy cha mình đang cất tiếng trong làn gió: "Sự sống tồn tại vì cái gì? Con người tồn tại vì cái gì? Là một con người, con sống vì cái gì?"
HẾT
Chú thích:
(1) Chữ hồi: 回
(2) Thiên đàn: là đàn tế lớn nhất trong bốn đàn ở Bắc Kinh (Thiên đàn, Địa đàn, Nhật đàn, Nguyệt đàn), nơi các hoàng đế triều Minh và Thanh làm lễ tế trời. Để biết thêm, xin tham khảo tại địa chỉ: http://en.wikipedia.org/wiki/Temple of Heaven.
(3) Kháng đá: Một loại giường bên trên để nầm, bên dưới đặt bếp lò để sưởi.
(4) Minh mã: trong ngành mật mã học, nội dung có thể trực tiếp đọc được, nhìn thấy được gọi là minh mã, nội dung có được sau khi xử lý minh mã, là mật mã.
(5) "Dẫu thiên binh vạn mã, ta cũng tiến lên": Câu này trong sách Mạnh tử (Công Tôn Sửu). Nguyên văn như sau: Tự phản nhi bất súc, tuy hạt khoan bác, ngô bất sủy yên? Tự phản nhi súc, tuy nhiên vạn nhân, ngô vãng hĩ. Nguyên ý cả câu là: Tự mình suy xét. nếu thấy không có đạo lý, thì phải rút lui; trái lại, nếu sau khi suy xét, thấy có lý lẽ, không hổ thẹn với lương tâm, thì dù có thiên quân vạn mã, ta cũng dũng cảm tiến lên, quyết không chùn bước.
(6) Chỗ bảy tấc: Người ta cho rằng, vị trí bảy tấc tính từ đầu rắn trở xuống, là tim rắn, đánh trúng có thể khiến con rắn chết ngay lập tức.
(7) Thú bộ, Lang bôn: Bước đi kiểu thú, chạy kiểu sói.
(8) Gần đây, có một chiếc bát gốm Nhữ đã được bán vơi sgias khoảng mười triệu đô la Mỹ.
(9) Chùa Pháp Môn ở tỉnh Thiểm Tây, được xây dựng vào cuối thời Đông Hán, phát tích vào thời Bắc Ngụy, hưng thịnh từ thời Tùy Đường, được gọi là chùa của Hoàng gia. Trong chùa có thờ Xá Lợi xương ngón tay của Thích Ca Mâu Ni, nên trở thành thánh địa Phật giáo của cả nước Trung Quốc.
(10) Lò Việt mờ, tựa sương cuối thu. Đoạt lấy cả sắc biết của đỉnh núi cao.
(11) Khéo cát trắng sáng nhuộm nước xuân, khẽ xoay băng mỏng tô mây xanh.
(12) Lưu vân phi bộc: mây bay thác chảy
(13) Lăn lư dã cổn: con lừa lười lăn mình
(14) Sạn đạo: Đường làm bằng cọc gỗ lát ván men theo các vách núi, rìa vực.
(15) Thai tạng giới Mạn đà la, Kim cương giới Mạn đà la: Mật giáo đã thiết lập hai Mạn đà la: Thai tạng giới Mạn đà la và Kim cương giới Mạn đà la, có nguồn gốc xuất phát từ tư tưởng của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh. Theo quan điểm tư tưởng của Phật giáo thì vũ trụ gồm hai phần, một phần là nhân cách và phần kia là thế giới của nhân cách, là những pháp sở chứng và thọ dụng của Phật. Hai Mạn đà la này là sự hội nhập giữa thụ tri và sở tri.
Thai tạng giới Mạn đà la (Garbhadhatu mandala) là yếu tố thụ động, mô tả vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tính, như thai mẹ chứ đựng con và từ lý tính thai tạng mà sinh công đức, biểu hiện đại bi tâm của Phật.
Kim cương giới Mạn đà la (Vajradhatu mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện cho trí tuệ viên mãn, trí tuệ sở chứng của Phật. Ngũ Trí Như Lai là trọng tâm của Mạn đà la này. Bí tạng ký viết: "Thai tạng là lý, Kim cương là trí."
Phần lớn các Mạn đà la Phật giáo được vẽ, in hoặc thêu những mẫu hoa văn kỷ hà. Một trong những loại Mạn đà la lớn thường bắt gặp là Mạn đà la bằng cát. Những Mạn đà la này được tạo ra trong nhiều tuần lễ và sau đó lại được quét bỏ đi để nói lên tính vô thường của hiện hữu. Ngoài ra, ở Tây Tạng còn có các Mạn đà la ba chiều giống như cung điện.
(16) Phi Thiên: Thiên thần
(17) Nam Truyền Ngũ Bộ kinh: Trong thời nguyên thủy của Phật giáo, các vị đệ tử Phật sau khi nghe pháp, đã dùng hình thức kệ tụng để khẩu truyền cho nhau, và những gì được khẩu truyền, đều y cứ vào trí nhớ. Nhưng, những vị đệ tử Phật, tùy căn cơ mà lãnh thọ giáo pháp của Phật mỗi người mỗi khác, từ đó mà nảy sinh những tư tưởng không giống nhau. vậy, khi giáo đoàn đã chính thức xác lập, thì việc chỉnh lý, thống nhất tất cả giáo thuyết của đức Phật, nghiễm nhiên trở thành một nhu cầu bức thiết. Kết quả là, tất cả những lời dạy của đức Phật trong suốt cuộc đời hóa độ, dần dần phát triển thành một loại hình thức văn học nhất định; cuối cùng đã hình thành toàn bộ THÁNH ĐIỂN, được gọi là KINH A HÀM, tức KINH TẠNG trong Ba Tạng.
Như vậy, Kinh A Hàm đã được truyền thừa từ giáo đoàn nguyên thủy; đến thời kỳ Phật giáo bộ phái, nó lại được truyền thừa trong từng bộ phái. Các tài liệu hiện có cho thấy, vào thời đó, ít ra thì Nam Phương Thượng Tọa bộ, Hữu bộ, Hóa Địa bộ, Pháp Tạng bộ, Đại Chúng bộ, Ẩm Quang bộ và Kinh Lượng bộ, đều có kinh điển truyền thừa; nhưng cho đến ngày nay thì chỉ thấy có kinh điển của Nam Phương Thượng Tọa bộ là được bảo tồn trọn vẹn; gồm có 5 bộ kinh: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ. Tất cả đều được viết bằng chữ Pali, và được gọi là Năm Bộ Kinh Nam Truyền (Nam Truyền Ngũ Bộ), cũng tức là Năm Bộ Kinh A Hàm Nam Truyền (Nam Truyền Ngũ A Hàm)
(18) Bản dịch của Như Khanh
(19) Vô nhân vô ngã: Không có người mà cũng không có ta.
(20) Hương tượng (Gandhahastin): Theo luận Đại Tỳ Bà Sa, hương tượng là con voi đực trong thời kỳ động dục, nách nó tỏa mùi thơm hăng nồng nên gọi là hương tượng; sức nó mạnh bằng mười con voi thường.
(21) Hương tượng độ hà: Trong kinh Niết Bàn có từ ngữ "hương tượng độ hà": Thỏ, ngựa, hương tượng cùng vượt sông. Thỏ qua sông thì nổi, ngựa qua sông nhập nửa thân, còn hương tượng chân đạp đến tận đáy sông. Kinh luận dùng hình ảnh này để tỷ dụ sự chứng đắc sâu cạn khi nghe giáo pháp.
(22) Long tượng: Được dịch từ chữ Naga trong tiếng Sankrit. Thường chỉ một con voi khổng lồ, hoặc dùng để chỉ sự dũng mãnh và đại lực của các vị đại Thánh, chư Bồ Tát hay chư Phật.
(23) Tượng vương hành xứ hoa lạc hồng: Tượng vương đi tới đâu thì hoa rụng đỏ tới đó để cung nghênh.
(24) Chữ chi: 之
(25) Hoa Dung đạo: một trò chơi cổ của Trung Quốc, gồm một khay vuông, và các hình vuông hoặc chữ nhật bên trên có vẽ Tào Tháo, Trương Phi, Quan Vũ... xếp gần kín khay, chỉ để ra một ô trống. Người chơi có nhiệm vụ lợi dụng ô trống này để dịch chuyển các hình nhân vật sao cho Tào Tháo có thể đi từ vị trí cao nhất đến vị trí thấp nhất của khay. Trò này tương tự như trò xếp hình vậy.
(26) Tranh quốc họa: Một họa pháp của hội họa Trung Quốc, dùng mực loãng hoặc màu nhạt soa phủ lên tranh đã vẽ để tăng hiệu quả nghệ thuật.
(27) "Thanh minh thượng hà đồ" là tên của một số tác phẩm hội họa khổ rộng của Trung Quốc, trong đó bản đầu tiên và nổi tiếng nhất là bức tranh của họa sĩ Trương Trạch Đoan vẽ đời nhà Tống. Tác phẩm mô tả cảnh sống của người dân Trung Quốc đời Tống tại kinh đô Biện Kinh (tức khai phong ngày nay) với đầy đủ những sinh hoạt thường nhật, trang phục, ngành nghề, cá chi tiết kiến trúc, đường sá cũng được mô tả kỹ lưỡng với nhiều màu sắc trên một diện tích rộng.
(28) Ma kính: Gương ma thuật.
(29) Hỏa thư ngân hoa: Cây lửa hoa bạc; ý chỉ cảnh đèn hoa rực rỡ.
(30) Người nông dân và con rắn, Đông Quách tiên sinh và con sói: Đây là hai câu chuyện ngụ ngôn, đại ý rằng những người không phân biệt tốt xấu, cứu giúp kẻ gian vong ân bội nghĩa, sẽ bị nó hãm hại.
Hai chuyện này đại để như sau:
Có người nông dân đi ra đồng trong lúc tiết trời lạnh lẽo, nhìn thấy một con rắn bị lạnh cóng. Người này thương tình bèn bỏ con rắn vào trong ngực áo sưởi ấm. Con rắn được ủ ấm tỉnh lại, liền cắn người nông dân một phát, khiến người này chết ngay tại chỗ.
Đông Quách tiên sinh là người thời Xuân Thu. Một lần đi qua núi, giữa đường gặp một con sói bị thợ săn đuổi theo cầu xin cứu mạng. Đông Quách tiên sinh đồng ý giúp đỡ, cho con sói trốn nhờ. Lúc thợ săn đi khuất, con sói liền quay lại định ăn thịt Đông Quách tiên sinh.
(31) Chữ nhi: 而
(32) Thâu quan: Ván cờ vây được chia thành ba giai đoạn, gọi là: bố cục, trung bàn hoặc (trung bàn chiến) và thâu quan.
Bố cục
Đây là giai đoạn ra quân trong cờ vây, quyết định cả bộ mặt của ván cờ sau này. Phần lớn trong khai cuộc, người ta tìm cách "án ngữ" vùng đất lớn trên bàn cờ bằng một đến hai quân cờ; sau đó sẽ phát triển dần.
Trung bàn chiến
Ở phần này, chủ yếu hai bên tập trung vào việc tranh giành đất đai, bắt đầu tính tới các vùng tranh chấp, tìm cách đặt quân như thế nào để hạn chế sự bành trướng của đối phương, chuẩn bị vây bắt quân đối phương.
Hầu hết các ván cờ nổi tiếng đều nhờ kỹ năng điêu luyện của các kỳ thủ thể hiện trong giai đoạn Trung bàn.
Thâu quan
Sau khi qua trung cuộc, các vùng lãnh thổ của cả hai đấu thủ tạm thời xác định, ít có khả năng tạo ra những thay đổi lớn về tương quan thế lực của hai bên, việc hoàn chỉnh lãnh thổ chỉ còn là những việc nhỏ chi tiết, đó chính là giai đoạn tàn cuộc gọi là Thâu quan. Các quân cờ thường được sắp xếp lại để tạo thành những hình đơn giản, thuận tiện cho việc xác định lãnh thổ và tính điểm. (Theo wikipedia)
(33) Phép thử thô bạo (Brutal force attack): Một phương pháp trong phá giải mật mã bằng cách thử tất cả mọi chìa khóa có thể có.
(34) Chữ hồi: 回
(35) Xuyết thuật (缀术): là một bộ sách toán thời Nam Bắc triều, tập hợp thành quả nghiên cứu của hai cha con nhà toán học Tổ Xung Chi và Tổ Hằng. Cuốn sách này được cho là có nội dung hết sức thâm ảo, đến nỗi " người học không thể hiểu hết sự ảo diệu, vậy nên bỏ không xem nữa" (Tùy Thư). Đến đời Đường, Xuyết thuật được liệt vào "Toán kinh thập thư", trở thành giáo trình toán học của Quốc Tử Giám, tương truyền bây giờ phải mất bốn năm mới học được hết sách này. Xuyết thuật từng được truyền đến Triều Tiên, Nhật Bản, nhưng đến thời Bắc Tống thì bộ sách đã thất truyền.
(36) Xạ phúc: là một dạng trò chơi đoán vật. Những người học tập thuật chiêm bốc trong Kinh Dịch thường chơi trò này để nâng cao năng lực chiêm đoán. Người chơi phải dùng các cách thức bói toán để đoán xem vật được giấu bên trong lu hoặc vại đậy kín là gì.
(37) Đây là triết lý nhất đa tương dung (một và nhiều tương dung nhưng không tương đồng) của Hoa Nghiêm Tông, nghĩa là về số lượng, một và nhiều vật có thể dung nạp lẫn nhau, mà vẫn không phá hoại cái tương riêng biệt (an lập) của mỗi vật. Như muôn ngàn ngọn đèn thắp sáng trong một gian nhà, ánh sáng của ngọn này ngọn kia hòa lẫn với nhau, nhưng mỗi ngọn vẫn có ánh sáng của riêng mình.
(38) Thụ thể: là những protein biệt hóa để tiếp nhận các phân tử hóa học nội sinh (ligands) hay ngoại sinh (thuốc, độc chất).
(39) Khay Mantra: hay còn gọi là Man Trát, là một loại pháp khí thường gặp trong Trạng truyền Phật giáo, tượng trưng cho toàn bộ vũ trụ thu nhỏ vào trong.
(40) Lục Mang tinh: Ngôi sao sáu cánh, còn gọi là ngôi sao David, hay ngôi sao Do Thái.
(41) Tất cả đều là pháp khí của phật giáo Tây Tạng.
(42) Trong tiếng Trung, âm đọc chữ Thomas rất giống với chữ Đường.
(43) Người quyết sách, cổ độc: Trong tiếng Trung, âm đọc của những từ này khá gần với câu nói của Sean.
(44) Kham bố là trụ trì của chùa lạt ma, đồng thời cũng là một chức quan trong chính quyền Phật giáo ở Tây Tạng xưa.
(45) Vị táng: Một hình thức chôn người chết, tương tự hỏa táng, thủy táng... Trong trường hợp này, vị táng là chôn trong dạ dày (ăn thịt).
Chương trước