Khốn nỗi ý trời lại không chịu chiều lòng người, đi thêm chừng mấy trăm mét về phía trước là hết đường, vách núi phẳng lì chắn ngay trước mặt, Merkin không nhịn được cất lời cằn nhằn: "Tôi đã bảo là đi sai đường mà lại, giờ thì hay rồi, đành phải quay lại thôi."
bạn đang xem “Mật Mã Tây Tạng ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!Trác Mộc Cường Ba không đồng ý với Merkin: "Hẳn không thể sai được, thông đạo của người Qua Ba xây dựng nhất định là đi ngược chiều kim đồng hồ, vả lại, ông nhìn đường hầm này mà xem, bốn phía đều đục đẽo hết sức gồ ghề lồi lõm, còn vách đá trước mặt chúng ta lại phẳng như bàn là vậy, chắc chắn có vấn đề."
Merkin liếc mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, hỏi: "Ý anh là, đây có thể là một thông đạo bị bít lại?"
"Ừm, đúng vậy, con đường chúng ta đi vốn đã không phải thông đạo bình thường rồi. Nếu là lối thông với giếng tế, hồ tế, sau khi xây dựng xong bị bít lại cũng không có gì lạ, nói không chừng, hai bên đều bị bít lại, cả đây rất có thể là một đường cong khép kín." Trác Mộc Cường Ba khẳng định thêm.
Merkin nói: "Vậy còn không khí mà chúng ta hít thở? Thực vật và động vật kia thì sao?"
Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại, rồi lập tức mở bừng ra, đi thẳng đến chỗ vách đá trơn nhẵn: "Có gió."
Bước đến gần, Trác Mộc Cường Ba mới phát hiện, thì ra đó không phải vách đá mà là một bức tường ghép bằng những viên gạch rất lớn, có điều khe hơ giữa những viên gạch này cực nhỏ, đứng xa không thể nhìn thấy được. Khi chiếu đèn pha lên phía trái bức tường ấy, Trác Mộc Cường Ba còn phát hiện một hàng chữ nhỏ. Merkin cũng ghé đầu lại hỏi: "Nô lệ, tuyệt vọng… viết gì vậy?"
"Đây là lời khuyên răn dành cho những phạm nhân và nô lệ bị đem làm vật tế, nếu bọn họ có thể may mắn thoát khỏi miệng của Ba m Ma Kha, thì khi nhìn thấy những hàng chữ này, bọn họ hãy tuyệt vọng đi." Trác Mộc Cường Ba đáp, gương mặt không biểu lộ chút biểu cảm nào. Câu cuối cùng "Khi các ngươi nhìn thấy hàng chữ này, hãy tuyệt vọng", chẳng khác nào một đòn giáng mạnh vào tim gã. Hiển nhiên, khi xây dựng giếng tế, người xưa đã nghĩ cả đến trường hợp những nô lệ hoặc phạm nhân thông minh có thể sẽ lợi dụng lối thông gió được bít bằng đất dầm để thoát thân, nên đã đi trước một bước, chặn luôn lối thoát này lại. Vật tế tức là vật tế, lễ vật hiến tế nhất định phải bị ăn thịt, nếu thoát khỏi Ba m Ma Kha, họ sẽ phải nhận lấy kết cục chôn thây trong bụng lũ côn trùng ở nơi này.
Hai người đều hiểu, sở dĩ đến giờ vẫn chưa thấy lũ côn trùng xuất hiện, hiển nhiên là vì theo đồng hồ sinh học, lúc này vẫn chưa đến giờ ăn của bọn chúng. Merkin lấy làm khó hiểu: "Theo cách nói của anh lúc trước, nếu không phải con Ba m gì gì đó, thì phải là con "Kubukubu", còn lớn mạnh hơn, khủng khiếp hơn cả đống xương trắng trong giếng tế mới đúng chứ? Sao lại biến thành côn trùng vậy?"
"Hoặc giả, bài văn tế ấy nói nó rất to lớn, không phải chỉ thể tích, mà là chỉ thực lực của chúng rất mạnh, bọn côn trùng quần cư xưa nay đều hợp tác săn mồi mà."
"Không thể nào." Merkin và Trác Mộc Cường Ba vừa thảo luận, vừa tiếp tục tìm kiếm lối ra. Merkin dò tìm xung quanh bức tường đá xem có phát hiện gì mới không, còn Trác Mộc Cường Ba lần lượt gõ lên mặt tường, xem có thể dùng thuốc nổ phá hủy được hay không
TƯỜNG KHỔNG MINH
Trác Mộc Cường Ba nói: "Hay là cho nổ tường giống như đã làm với đường thông gió?"
"Không được," Merkin tức khắc gạt ý kiến của gã đi: "Đây là tường gạch, không phải đất dầm, cho nổ sẽ gây ra chấn động, có thể chọc giận lũ côn trùng kia, nói không chừng những người xây dựng Bạc Ba La thần miếu cũng đã tính toán đến khả năng này rồi. Thời bấy giờ, hẳn phải có hỏa dược rồi chứ?"
Trác Mộc Cường Ba gật đầu, trước khi Đạo quân Ánh sáng biến mất, hỏa dược đã xuất hiện từ rất lâu, có trời mới biết bọn họ đã nghiên cứu ứng dụng thuốc súng đến trình độ nào rồi.
Merkin nói: "Vậy thì phải rồi, các nghệ nhân thời xưa còn hiểu tâm lý con người hơn cả anh và tôi, trong các kiến trúc cổ, chúng ta thường hay gặp phải tình trạng như vậy, khi anh tưởng rằng mình đã phá giải được cơ quan cạm bẫy, thực ra lại chính là lúc anh khởi động bẫy rập." Về mặt này, kinh nghiệm thực chiến của Merkin phong phú hơn Trác Mộc Cường Ba nhiều. Y bước đến phía bên phải bức tường, đột nhiên kêu lên: "Ủa, bên này cũng có chữ."
"Trí tuệ là con đường sống duy nhất." Trác Mộc Cường Ba dịch một cách máy móc.
Merkin lấy làm khó hiểu: "Thế là ý gì? Vừa mới nói tuyệt vọng xong, lại bảo có đường sống? Anh dịch có đúng không vậy?"
Trác Mộc Cường Ba nói: "Đại ý chắc không sai đâu, tôi nghĩ, ý của cổ nhân là, thân là vật tế dâng lên thần linh, bị ăn thịt là lựa chọn chính xác duy nhất, nhưng nếu tế phẩm ấy đủ thông minh, vậy thì trí tuệ ấy sẽ có thể bù đắp được những lỗi lầm y mắc phải, hoặc gả lấp đầy sự bất công của số phận, khiến y có được cơ hội sống lại làm người. Nếu đã như vậy, nói không chừng còn có phương pháp đặc thù nào khác để vượt qua bức tường này cũng nên."
"Tường Khổng Minh! Ngu xuẩn quá!" Câu nói cuối cùng của Trác Mộc Cường Ba đã nhắc nhở Merkin, y đột nhiên, áp sát hai bàn tay lên mặt tường xòe năm ngón tay rờ rẫm một hồi.
"Ông nói gì vậy?"
Merkin vừa rờ rẫm từng viên gạch một, vừa giải thích: "Anh đã bao giờ chơi trò mở khóa gỗ của Trung Quốc chưa, hình như còn gọi là khóa Lỗ Ban hay gì đó ấy, không có móc ngầm nào, mà chỉ là từng khối từng khối linh kiện ghép lại với nhau. Bức tường Khổng Minh này cũng dùng nguyên lý đó, những viên gạch ghép vuông này, nhìn bề ngoài thì giống nhau hết, nhưng kết cấu bên trong lại khác nhau hoàn toàn, chỉ cần tìm được viên gạch đầu tiên, những viên gạch còn lại sẽ dịch chuyển theo các hướng trên dưới trái phải, mở ra một cánh cửa cho chúng ta thoát khỏi đây. Kết cấu này xuất hiện rất sớm, tôi nghe người ta gọi nó là tường Khổng Minh. Loại tường này ẩn mật hơn các kiểu cửa ngầm thông thường nhiều. Lẽ ra ta phải chú ý đến nó từ đầu mới đúng. Anh nhìn xem, mặt hướng về phía chúng ta, toàn bộ đều là những hình vuông chắc chắn, có biết tại sao phải làm thành hình vuông không? Chỉ có vậy mới đảm bảo được, khi người ở bên ngoài di chuyển chúng, sẽ không thể nhìn thấy biến hóa của kết cấu bên trong!" Nói tới đây, y chừng như đã phát giác được gì đó, bèn lấy ngón tay ấn lên, trên viên gạch liền xuất hiện một lỗ nhỏ, vừa đủ để đút ngón tay vào trong. Merkin đặt ngón giữa vào, ấn ấn, không thấy nhúc nhích gì, lại nhấc lên móc ra phía ngoài, cũng vẫn không có phản ứng.
Merkin lắc lắc đầu, tiếp tục rờ rẫm những viên gạch khác, không lâu sau, y lại tìm được một viên nữa, thọc vào lỗ nhỏ, ấn vào trong không được lại móc ra ngoài, viên gạch ấy tức thời lồi ra nửa lóng tay, kế đó, Merkin tiếp tục ấn thử các viên gạch xung quanh, nhưng đều không thấy nhúc nhích gì. Y nghĩ ngợi giây lát rồi ghé sát mặt vào chỗ viên gạch lồi lên tiếp giáp với các viên gạch xung quanh, thổi lớp bụi bám trong khe hở đi, chợt hai mắt sáng bừng lên, tựa hồ đã hiểu ra chuyện gì đó, liếm liếm môi, nắm tay vào phần gồ lên ấy, dùng sức vặn một cái. Không ngờ viên gạch ấy lại xoay được chín mươi độ, Merkin thử đẩy nhẹ, viên gạch liền trượt về vị trí ban đầu, mặt tường lại phẳng nhẵn. Y đẩy thêm chút nữa, viên gạch lại lõm vào chừng nửa lóng tay. Merkin dường như đã tìm được phương pháp, bắt đầu thử di động những viên gạch cạnh đó, kéo viên bên phải ra, ấn viên bên trái vào, đẩy viên phía dưới lên, cũng có lúc các viên xung quanh đều không thể nhúc nhích, y lại phải phục nguyên trạng thái ban đầu, đổi hướng làm lại, cứ tiếp tục lần mò như vậy, càng về sau độ khó càng cao, nhưng dần dần, trên bức tường cũng thấp thoáng hiện ra hình dáng một cánh cửa.
Chỉ là, thời gian không còn nhiều nữa, Trác Mộc Cường Ba đứng bên cạnh lặng lẽ quan sát, bỗng nghe thấy những âm thanh lạo xạo vang lên, lũ côn trùng trong các hang hốc ở vách tường bên trái cơ hồ đã náo động lên rồi. Gã vội nhắc nhở: "Có thể nhanh hơn chút nữa được không? Hình như lũ côn trùng kia đói rồi thì phải."
Merin đang tập trung toàn bộ tinh thần vào những viên gạch trước mặt, bực bội gắt: "Đừng quấy rầy tôi nữa, thứ này chỉ cần sai một bước là phải làm lại từ đầu đấy, nếu bọn chúng có chui ra, anh phải nghĩ cách mà chặn chúng lại chứ."
Trác Mộc Cường Ba cũng biết Merkin lúc này không thể phân tâm, nếu y nhớ nhầm bước nào, không thể đưa bức tường về vị trí ban đầu, khiến một viên gạch nào đó bị mắc kẹt thì họ rất khó sắp xếp để biến bức tường này thành một cánh cửa. Chỉ hiềm nỗi, lũ côn trùng kia cũng không cần biết lý lẽ gì, cứ ùn ùn chui ra. Trác Mộc Cường Ba thoáng giật bắn mình, nhưng cũng lập tức yên tâm lại ngay, bởi chúng không phải giống gì khác, mà chính là lũ gián lớn gã đã quen thuộc. Trác Mộc Cường Ba biết rõ, phần miệng của sinh vật ngoại hình xấu xí hung tợn này không lớn lắm, chúng chỉ có thể ăn được chút địa y hay bùn đất gì đó mà thôi, không thể gây tổn hại đến con người được.
Trác Mộc Cường Ba lấy làm lạ, sao người ta lại nuôi dưỡng thứ côn trùng không thể gây tổn hại gì cho con người thế này chứ? Trừ phi, bọn chúng chỉ là một mắt xích trong chuỗi thức ăn, nếu bọn chúng không phải kẻ ăn thịt, vậy thì, chúng chính là kẻ bị ăn thịt!
Lũ gián to tướng ấy mau chóng bò khắp cả hang động. Merkin hoàn toàn không để ý, coi như không nhìn thấy cũng không nghe thấy. Trác Mộc Cường Ba cảnh giác nhìn chằm chằm bọn gián, thấy trên cẳng chân chúng vẫn có gai nhọn hoắt, ai biết được bọn chúng có đột nhiên nổi xung lên tấn công hay không?
Chỉ thấy bọn gián đó như trúng phải một thứ tà thuật gì đó, sau khi bò ra khỏi hang hốc trên tường, liền ngoan ngoãn đứng yên dưới đất, kế đó bắt đầu nối đuôi nhau thành từng hàng, lần lượt tiến theo một hướng.
Trác Mộc Cường Ba cực kỳ kinh ngạc, nhất định đã có chuyện gì đó xảy ra, mới khiến hành vi của lũ gián này trở nên bất thường như thế. Gã liếc nhìn sang Merkin đang dồn toàn bộ tinh thần vào việc sắp xếp điều chỉnh các viên gạch trên tường, lũ gián này hẳn sẽ không gây nguy hại gì cho Merkin, mà cho dù có nguy hiểm, chắc hẳn Merkin cũng có thể một mình đối phó được chứ? Vả lại, đối với thành ý mà Merkin biểu lộ, Trác Mộc Cường Ba vẫn không thể hoàn toàn tin tưởng, gã quyết định lần theo hướng đi của bọn gián này xem sao, chuyện này mà không làm cho rõ ràng, không khéo lại dẫn đến tai họa bất ngờ gì ập xuống đầu chứ chẳng chơi.
Nghĩ vậy, Trác Mộc Cường Ba liền bảo Merkin: "Là lũ gián, không ảnh hưởng gì đến chúng ta cả, nhưng hành vi của chúng rất quái dị, tôi đi xem thế nào, ông cẩn thận đấy." Merkin xua xua tay, ý bảo Trác Mộc Cường Ba không cần lo cho y.
Trác Mộc Cường Ba dè dặt đi theo lũ gián, mới đi được vài bước, gã đã ngạc nhiên nhận ra, thứ thu hút bọn gián này chính là những bông hoa nhỏ màu thịt tươi trông có vẻ yếu ớt kia. Những bông hoa nhỏ nhịp nhàng xòe ra cụp vào, mỗi lần như thế lại phun ra một làn hơi sương mỏng mảnh. Bông hoa phía trước vừa phun ra, bông phía sau lại tiếp nối, lũ gián cứ thế men theo làn hơi sương đó lần lượt chầm chậm tiến về phía trước. Dựa theo phương pháp nhận biết chất độc của Lữ Cánh Nam truyền dạy, Trác Mộc Cường Ba sơ bộ phán đoán làn hơi sương kia không có độc, gã khẽ hít nhẹ một hơi, chỉ thấy một mùi hương ngòn ngọt bay vào mũi. Trác Mộc Cường Ba vội lắc lắc đầu, thứ hơi sương này có lẽ không độc, nhưng hiển nhiên có thể khiến người ta nảy sinh ảo giác. Trác Mộc Cường Ba còn chú ý thấy, khi những bông hoa xòe ra cụp vào, cánh hoa không ngừng run lên, chắc hẳn còn phát ra một âm vực gì đó mà tai người không thể nghe được. Sau khi biết được nguyên nhân lũ gián lần lượt bám đuôi nhau đi về một phía, Trác Mộc Cường Ba càng lúc càng sợ hãi sinh vật có hình dạng giống như khúc cây kia, nếu lũ gián này không phải kẻ săn mồi mà là kẻ bị săn, hành vi của chúng lại kỳ lạ như vậy, lẽ nào khúc cây và những bông hoa nhỏ kia mới là kẻ săn mồi? Lại là một loài thực vật ăn thịt? Hay giữa bọn chúng có quan hệ cộng sinh?
Trác Mộc Cường Ba chẳng buồn để ý đến mấy hông hoa dưới chân nữa chỉ rảo chân bước nhanh, sau khi đi qua hai khúc ngoặt, vượt qua lũ gián đến chỗ gã và Merkin phát hiện ra khúc cây đầu tiên, Trác Mộc Cường Ba liền trông thấy một cảnh tượng rợn người. Trong đời, Trác Mộc Cường Ba đã gặp khá nhiều quái vật, giờ đây những thứ có thể dọa khiếp gã cũng chẳng còn mấy, cho dù thằn lằn khổng lồ đột nhiên xuất hiện trước mặt, gã vẫn có thể ung dung đối phó được. Nhưng giống sinh vật ở trước mắt này thực sự khiến Trác Mộc Cường Ba không thể tưởng tượng nổi, thực sự không hiểu tại sao trên đời này lại có giống vật quái dị đến thế.
Khúc cây mới rồi còn nằm im lìm dưới đất, lúc này đang chầm chậm nhúc nhích, hai hàng gai nhọn đối xứng ở hai bên, tựa như những mái chèo hai bên mạn thuyền rồng, đều đặn gạt về phía sau. Tầng biểu bì sờ vào thấy khô ráp như vỏ cây, giờ lại cuộn lên từng đợt sóng nhu động, một đầu của khúc cây ấy đã rút ra khỏi vách đá, lộ ra đầu nhọn hoắt như hình thoi.
Phần biểu bì của đầu nhọn ấy có vằn xoắn, thoạt trông như mũi khoan, sau khi rút ra khỏi vách đá liền nghển cao lên, chẳng khác nào một con rắn. Thứ này làm sao có thể coi là thực vật được chứ, đây rõ ràng là mô thức hành vi của động vật. Tiếp sau đó, mới là màn để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho Trác Mộc Cường Ba. Cái đầu nhọn đó nghển cao trước mặt gã, xòe ra bốn năm cánh như một bông hoa nở, mỗi cánh đều giống như một lưỡi kiếm bản rộng, hai bên có răng cưa. Mỗi lưỡi kiếm ấy phải dài cả mét, giữa các lưỡi kiếm có một lớp mô thịt phủ đầy những mạch máu li ti. Mé bên trong của lưỡi kiếm ấy, lần lượt có bốn ngạnh cứng, những cái ngạnh ấy lại vươn dài ra như con dao gấp. Nhìn thoáng qua, những ngạnh cứng đó rất giống chi trước của con gián, phía bên trong cũng có răng cưa sắc nhọn, khiến mảng thịt lại càng banh rộng thêm ra.
Cả quá trình ấy kỳ thực diễn ra rất nhanh, thứ trông như khúc cây khô kia chỉ thoáng cái đã xòe ra trước mặt Trác Mộc Cường Ba, biến thành một cái lồng chụp bằng thịt bán kính gần hai mét, bốn ngạnh cứng không ngừng khép ra đóng vào, trông quái đản tột cùng.
Cái lồng chụp ấy nghển cao, xoay chuyển mấy góc độ trên không trung như hệ thống ra đa bắt tín hiệu, cơ hồ đã dò được lũ gián kia đang tiến đến. Tấm thân như khúc cây của nó liền vắt ngang đường, hạ cái lồng chụp đó chênh chếch xuống mặt đất. Động tác của nó lúc này bảo linh hoạt như rắn cũng không ngoa chút nào. Lúc này, Trác Mộc Cường Ba mới nhìn được bên trong cái lồng chụp bằng thịt đó, chỉ thấy ở phần trung tâm ra đa là một hang động đen ngòm sâu không thấy đáy, bên trong vươn ra rất nhiều móc ngược, không ngừng thò ra rụt vào như pít tông. Giữa những móc ngược nhỏ ấy còn có rất nhiều xúc tu mềm mại, thoạt nhìn trông như nhụy hoa, hoặc thứ gì đấy khác, sợi nào sợi ấy y hệt những con sâu đỏ, không ngừng nhu động theo những móc câu kia.
Đây là thứ gì chứ, hiển nhiên không thể gọi là phần đầu của thứ sinh vật nào đó được rồi, con quái vật này không có đầu, đây cùng lắm cũng chỉ có thể coi là một cái miệng, một cái miệng dạng túi cực kỳ lớn mà thôi. Lẽ nào, thứ này đã tiến hóa đến độ không cần đại não, không cần ngũ quan, chỉ cần một cái miệng và cái bụng đủ lớn để tiêu hóa thức ăn? Đây hiển nhiên là mô thức tiến hóa cuối cùng để đáp ứng nỗi khát khao được ăn uống rồi. Một luồng khí lạnh chạy từ gót chân lên đỉnh đầu, lan tỏa khắp châu thân Trác Mộc Cường Ba, bản năng cho gã biết, tốt nhất là không nên đụng đến con quái vật này làm gì. Nhìn những con gián như bị trúng phải bùa mê xung quanh, Trác Mộc Cường Ba bắt đầu suy nghĩ tìm đường rút lui.
Lũ gián ấy, như đã được hẹn trước, thảy đều bò đến chỗ cái lồng chụp kia. Không biết cái lồng chụp ấy làm sao cảm nhận được sự tồn tại của lũ gián, chỉ thấy nó dường như càng thêm hung phấn, những cái móc câu nhỏ và các xúc tu đều hân hoan ve vẩy nhung nhúc. Con gián đầu tiên bò vào bên trong cái lồng chụp, những cái móc câu đó liền giữ chặt con mồi, rồi như cái máy nghiền, ép nát con gián thành một bãi nước xanh lục, nuốt cả vỏ vào trong. Thân thể trông như khúc cây kia lại rung lên nhè nhẹ, tạo thành những đợt sóng nhu động. Cả một thân hình dài chừng ấy, phải nhét vào bao nhiêu con gián mới đầy được đây?
Hết con gián này đến con gián khác chui đầu vào cái lồng chụp to tướng, miệng con quái vật kia như thể một hang động không đáy, bất kể bao nhiêu gián nhét vào cũng không thấy biến đổi gì, đồng thời, màn sương do những bông hoa nhỏ kia tỏa ra cũng nhạt dần rồi biến mất, lũ gián dường như sắp hồi phục lại sự tỉnh táo đến nơi. Thi thoảng gặp con gián nào không chịu ngoan ngoãn chui đầu vào rọ, bốn cái càng kia cũng không bỏ qua, trong phạm vi của lồng chụp, chúng chỉ cần khẽ co duỗi một cái, hệt như bốn cánh tay máy chuyên bốc gắp đồ vật, không ngừng bắt lấy lũ gián nhồi vào trong miệng. Dường như cái lồng chụp bằng màng thịt ấy cũng biết, thời gian ăn uống thỏa thuê của nó sắp kết thúc nên càng lúc càng thêm cuồng loạn, không đợi lũ gián bò vào chỗ mình nữa, bốn ngàm cứng bên trong bắt đầu tăng tốc thò ra thụt vào, đồng thời những xúc tu nhỏ ở chính giữa "nhụy hoa" của nó cũng phát huy tác dụng: chúng bắn mạnh ra như lưỡi tắc kè, mười mấy sợi xúc tu quấn lấy một con gián rồi lập tức rụt trở về, chỉ trong chớp mắt, con gián đã biến mất. Mỗi lần đám xúc tu bắn ra như thế, đều cuốn vào được bốn năm con gián lớn, cộng với những ngàm cứng không ngừng vươn ra vơ vào, con quái vật liên tiếp nhồi thêm thức ăn vào miệng nó.
Trác Mộc Cường Ba để ý thấy những con gián ở phía sau đã bắt đầu chạy tán loạn rồi. Gã cũng hiểu, còn không chạy cho mau e rằng sẽ muộn mất, nhưng gã vừa mới nhấc chân lùi lại một bước, hai cái ngàm cứng ở mé trên trong cái miệng quái vật kia lập tức như hai đầu dò, khóa chặt gã lại. Đồng thời, cả cái lồng chụp cũng xoay về phía gã đang đứng. Các ý nghĩ liên tục xoay chuyển trong đầu Trác Mộc Cường Ba: "Làm sao nó phát hiện được mình nhỉ? Con quái vật này không có mắt, chiếu đèn pha vào nó cũng không biết, song nó lại cảm giác được lũ gián kia, phải rồi, chuyển động, nó có thể cảm nhận được những chuyển động rất nhỏ." Trác Mộc Cường Ba đoán không sai, lúc này, trong sự cảm tri của cái lồng chụp bằng màng thịt kia, gã chính là một con gián cực lớn. Dựa vào thể hình và trọng lượng cảm ứng được, nó đưa ra phán đoán, "con gián" Trác Mộc Cường Ba này thuộc loại thịt nhiều mỡ béo. Vậy là, nó lập tức nhắm vào "con gián" khổng lồ này mà truy kích như con sói đói quanh năm chỉ được ăn chay bỗng ngửi thấy mùi thịt.
Trác Mộc Cường Ba thấy con quái vật có ý đồ với mình, lập tức quay người bỏ chạy. Tuy trên tay có súng và các thứ vũ khí khác, nhưng chỉ cần liếc nhìn độ dài và thể hình của "khúc cây" đó, gã thực tình chẳng hứng thú chiến đấu với nó chút nào cả.
Trác Mộc Cường Ba bỏ chạy trước, ngay lập tức, con quái vật dị hợm kia cũng cuồn cuộn thân hình như mãng xà khổng lồ đuổi theo, bốn cái ngàm cứng cọ sát vào nhau, phát ra âm thanh xoèn xoẹt như mài dao, nghe rởn cả gai ốc. Tốc độ chạy của Trác Mộc Cường Ba lại thua thân thể to tướng đó, xem chừng gã sắp bị nó đuổi kịp đến nơi.
Bốn ngàm cứng bên trong xòe rộng hết cỡ, chụp thẳng xuống đầu Trác Mộc Cường Ba như một cái ruột tượng khổng lồ. Đúng vào khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc ấy, Trác Mộc Cường Ba thình lình nghiêng người sang mé bên, rồi lăn tròn một vòng dưới đất theo thế Lăn lư dã cổn(13), đòn tấn công của con quái vật liền chụp vào khoảng không.
Một đòn không trúng, cái lồng chụp lại xòe ra rộng ngoác. Trác Mộc Cường Ba bò dậy chạy tiếp, được khoảng năm sáu mét, cái lồng chụp bằng màng thịt kia cuối cùng cũng dừng lại cách gã khoảng bốn mét. Trác Mộc Cường Ba nghiêng đầu quan sát, liền phát hiện ra thân thể như khúc cây của con quái vật đã kẹt vào trong vách đá, không nhúc nhích được nữa. Bấy giờ, gã mới yên tâm thở hắt ra một tiếng. Nhưng cái lồng chụp kia dường như không từ bỏ ý định. Nó gấp bốn ngàm cứng lại, khép bốn cánh hoa như bốn lưỡi kiếm vào, trở lại thành đầu nhọn như mũi khoan lúc ban đầu, rồi rụt trở lại đầy bất mãn. Có điều, hai hàng chân giả trông như gai nhọn trên thân thể nó vẫn co vào duỗi ra, cơ hồ muốn chen ra khỏi vách đá. Ánh mắt Trác Mộc Cường Ba chợt hướng về phía một khúc cây khác, quả nhiên, khúc cây ấy cũng co duỗi theo một tiết tấu nhất định, phối hợp với cái lồng chụp ở đầu. Liên tưởng đến những bông hoa nối tiếp nhau phun ra làn sương mờ mờ kia, Trác Mộc Cường Ba giật bắn mình kinh hãi: rõ rang, những khúc cây nửa chôn trong vách đá, nửa lộ ra bên ngoài thông đạo này đều thuộc về nó, con quái vật này không ngờ lại dài đến cả mấy trăm mét!
Hiển nhiên, tốc độ xông lên trước của con quái vật tởm lợm này rất nhanh, nhưng lại không quen trườn giật lùi, chỉ thấy toàn bộ gai của nó đều ra sức bám chặt lấy mặt đất, thân thể to đùng mới nhích về phía sau được một chút xíu. Xem tình hình này, nó muốn hoàn toàn rụt ra khỏi vách đá, có lẽ cũng cần một khoảng thời gian nhất định nữa.
Trác Mộc Cường Ba liền bỏ mặc cái đầu như mũi khoan ấy lại, chạy thẳng ra chỗ Merkin bên bức tường Khổng Minh.
Merkin quả nhiên không nói sai, chỉ thấy y chuyển viên gạch này lên, ấn viên gạch kia xuống, mặt tường bằng phẳng đã bị y xếp thành hình dạng một cánh cửa, lõm vào bên trong khoảng nửa mét, có điều không biết bức tường rốt cuộc dày đến chừng nào?
"Tôi tìm ra bí quyết rồi, sẽ nhanh chóng mở được bức tường Khổng Minh này thôi." Thấy Trác Mộc Cường Ba chạy lại, Merkin lập tức nói.
Trong miệng Trác Mộc Cường Ba không biết từ lúc nào đã nhét mấy miếng kẹo cao su kiêm chất nổ dẻo, gã thở hổn hển, nghiêm túc nói: "Tốt nhất là nhanh lên một chút, ngoài ra, cái thiết bị dẫn nổ của anh sử dụng thế nào vậy?"
Merkin đáp: "Gặp phải quái vật gì à?"
Trác Mộc Cường Ba vội tóm lược tình hình: "Khúc cây mà chúng ta nhìn thấy đó là vật thể sống, nó chính là kẻ săn mồi, lũ gián ở đây đều là thức ăn của nó. Tất cả những khúc cây mọc chòi ra thụt vào trên vách đá, thực ra đều là thân thể của con quái vật ấy. Nhân lúc nó còn chưa thoát hẳn khỏi vách đá, tôi định cho nó nổ tung thành mấy khúc."
Merkin lắc đầu đáp: "Thiết bị điều khiển nổ này hơi đặc biệt một chút, trong mấy phút ngắn ngủi tôi rất khó giải thích rõ. Anh cứ dùng giấy bạc bọc bên ngoài bã kẹo cao su, chỉ cần có áp lực khoảng mười kí lô gam đè lên là có thể dẫn nổ được rồi. Có điều… loại sinh vật hình thể dài kiểu này, đa số đều có hệ thần kinh dạng vòng, giống như con giun đất ấy, anh phải cẩn thận, không khéo một con lại biến thành hai con thì khốn." Merkin ít nhiều cũng từng nghe Soares nói về một số đặc tính sinh vật cổ quái.
Cơ hàm đang nhai kẹo cao su của Trác Mộc Cường Ba tức thì cứng đơ, nếu đúng như Merkin nói, thân thể con quái vật này giống như đuôi thằn lằn, sau khi đứt lìa vẫn có thể cựa quậy một lúc lâu thì quả là hỏng bét. Đó hiển nhiên là tình cảnh mà gã không hy vọng gặp phải nhất. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, gã nói tiếp: "Bức tường này còn dày không, hay là dùng thuốc nổ hủy nó đi luôn, đằng nào cũng bị con quái vật kia chú ý đến rồi."
Merkin lắc đầu phản đối: "Tốt nhất là không nên, tôi xem kỹ rồi, phía trên bức tường này là một tảng đá nghìn cân, nếu cho nổ tường, khối đá ấy sẽ rơi xuống, lúc ấy thì chẳng còn đường nào thoát cả. Đừng giục cuống lên nữa, nếu con quái vật kia đuổi đến thật, thì nghĩ cách ngăn nó lại một lúc đi."
"Ngăn?" Trác Mộc Cường Ba thầm cười khổ, làm sao ngăn được nó bây giờ? Nhìn thân thể dài thượt to gấp đôi con trăn khổng lồ Nam Mỹ ấy, nếu bị nó quấn phải….
Người trẻ tuổi vừa bước đi, vừa quan sát hai chấm đỏ trên màn hình PDA, lòng lấy làm kỳ quái: "Sao vậy, lâu thế rồi vẫn không có động tĩnh à? Đang nghỉ ngơi hay bị thứ gì chắn đường? Không phải bị ăn thịt rồi chứ? Đã cấp cho chúng đầy đủ vũ khí thế rồi mà, với năng lực của chúng, lẽ ra phải không có chuyện gì chứ nhỉ?"
Bấy giờ, Khafu đang đi phía trước áp giải ba người bọn pháp sư Á La đột nhiên lên tiếng: "Ngài Thomas, chúng ta đi ra rồi."
Bọn lính đánh thuê lại ồ lên đầy kinh ngạc: "Đó là gì vậy?"
"Sao lại thế này?"
"Đó… đó là gì chứ?"
HỒ TẾ
Đi hết dòng sông, ánh sáng đã yếu dần, cảnh tượng trước mắt bọn lính đánh thuê bị bao phủ trong một tấm màn u ám mông lung. Thứ đầu tiên đập vào mắt là một cái hồ. Tòa thần miếu ở giữa hồ, trong miếu lại có hồ, chẳng trách đám lính đánh thuê đều ồ lên kinh ngạc như thế. Có điều, thứ khiến bọn chúng kinh ngạc hơn bội phần, là kiến trúc xung quanh hồ nước và cảnh tượng kỳ lạ ở giữa hồ.
Ven bờ hồ có các cột đá, nhìn theo những cột đá này, liền phát hiện ra hẵng còn bảy tám dòng sông phát ra ánh sáng mờ mờ chảy vào trong hồ nước. Đưa mắt nhìn lên phía trên thác nước, dưới ánh sáng chập chờn, diện mạo của kiến trúc dần dần hiện ra từng chút từng chút một, cảm giác như thể đang quan sát con báo qua ống vậy.
Cái hồ này, hoặc nên gọi là một bể chứa nước cực lớn, vì nó nằm trọn trong một gian đại sảnh khổng lồ. Những cột đá nhân tạo, hành lang đá, bệ đá, mái vòm… tạo thành một điện đường vĩ đại hình tròn cao ba tầng, mỗi tầng có bảy tám dòng sông chảy ra, thậm chí nhiều hơn. Dòng nước phẳng lì tựa như tấm khăn lụa nối ba tầng bình đài với hồ nước bên dưới. Có điều, kiến trúc này hầu như ẩn bên trong bóng tối, không nhìn rõ được, chỉ gây ấn tượng hết sức kỳ vĩ, một sự kỳ vĩ khiến người ta phải chấn động và kinh hãi.
Nếu nói kiến trúc hùng vĩ này mang đến cho con người ta cảm giác sững sờ chấn động, thì ánh sáng kỳ dị ở giữa hồ lại khiến người ta kinh ngạc, mừng rỡ và cảm thấy huyền diệu khó tin.
Vốn dĩ, giữa hồ lẽ ra phải bị bóng tối bao trùm, nhưng trong bóng tối ấy lại sinh ra những vệt ánh sáng. Những vệt sáng ấy tựa như tinh linh nhảy múa, lại gần một chút thì thấy giống như ngọn lửa, ở xa thì nhìn như ánh đom đóm lướt qua lướt lại rất nhanh trên mặt hồ. Bảo là cá, thì không giống lắm, bởi những vệt sáng lơ lửng phía trên mặt hồ, thoắt cái đã tắt phụt, rồi không hiểu ở đâu, lại thình lình sinh ra một vệt sáng mới.
Dưới ánh sáng lờ mờ của những vệt sáng di động, có thể thấy giữa hồ có rất nhiều cột. Nhìn những cái bóng lồi lõm đều đặn, có thể đoán rằng, các cột trụ giữa hồ hẳn phải có chạm trổ.
Người trẻ tuổi bình tĩnh ra lệnh: "Tìm kiếm ven bờ hồ xem chắc phải có thuyền bè gì đó, chúng ta cần ra giữa hồ." Kế đó, y lại cảnh cáo bọn lính đánh thuê đang trầm trồ không ngớt: "Nhỏ tiếng thôi, đừng trách tao không nhắc nhở chúng mày, chủ nhân của cái hồ này không thích ồn ào quá đâu, tuy đã qua một nghìn năm, nhưng tao cũng không thể xác định nó còn sống hay đã chết. Nếu ghi chép trong cổ thư không sai thì con quái này có thể dựa vào chấn động sóng âm để bắt mồi đấy." Quả nhiên, bọn lính đánh thuê từng sống sót thoát khỏi rừng rậm ấy hết sức mẫn cảm với những từ ngữ như "quái vật, quái thú", vừa nghe câu đó, lập tức không tên nào dám lớn tiếng nữa. Khafu thì thầm hỏi nhỏ: "Chủ nhân của cái hồ này là quái vật gì vậy?"
Người trẻ tuổi ấy cũng thấp giọng đáp: "Ma Long Tán lớn mạnh nhất đến từ phương Bắc, trong truyền thuyết, ngay cả Cách Tát Nhĩ vương cũng không thể hoàn toàn tiêu diệt được nó, Khổ Cáp Nhân Đức Duy Ngõa Khổ…" Nói đoạn, y dừng lại quay sang hỏi pháp sư Á La: "Đọc như thế phải không nhỉ? Giống như là tên ngoại lai, phát âm theo tiếng Phạn, tôi cũng không đọc được chính xác."
Pháp sư Á La thoáng ngẩn người ra, tên đầy đủ của Ma Long Tân trong truyền thuyết ấy rất dài, nó lại có rất nhiều tên khác nhau, phát âm cực kỳ phức tạp. Có điều, cái tên mà gã Thomas này vừa đọc ra hình như rất giống tên của Ma Long thần trong Mật tông, một vị thần linh lớn mạnh nhưng cực kỳ tàn bạo!
Người trẻ tuổi tiếp tục giải thích với bọn lính đánh thuê: "Người Tạng thời cổ đại đã sùng bái rồng từ rất sớm, có điều, rồng thời bấy giờ và rồng trong suy nghĩ của người hiện đại chúng ta không giống nhau cho lắm. Ếch xanh, cá, rắn… đều được coi là hóa thân của rồng, về sau, chịu ảnh hưởng của những miêu tả về rồng truyền từ Ấn Độ và Trung Thổ tới, rồng trong tâm thức người Tạng mới trở thành vị thần linh cư trú dưới nước, có khả năng tạo mây tạo mưa. Còn Tán, là thần linh của Bản giáo cổ đại, vua Thổ Phồn thời xưa đều được gọi là Tán Phổ, cũng chính là vì lẽ vậy. Long thần và Tán thần kết hợp lại, sinh ra hậu đại, gọi là Long Tán, trong đó lớn mạnh nhất phải kể đến Ma Long Tán. Trong thánh điển của Bản giáo, Thập Vạn Long kinh, có giải thích rằng, chúng sở hữu sức mạnh kết hợp của Long thần và Tán thần, đồng thời còn sinh ra ma lực của bản thân nữa. Sách cũng có một phần miêu tả về Ma Long Tán phương Bắc, nói rằng nó có pháp lực vô biên, có thể nuốt cả đất trời, diện mạo cực kỳ dữ tợn, đầu có chín sừng, mặt có chín mắt, cơ thể mọc ra chín cánh tay. Về điểm này, tao nhớ có một học giả chuyên nghiên cứu Thập Vạn Long kinh từng chỉ ra, số chín ở đây, do ảnh hưởng của truyền thừa từ Trung Nguyên, có lẽ mang ý nghĩa là số lớn nhất, tức là chỉ nhiều vô số. Nói vậy có nghĩa là, trên thân thể Ma Long Tán mọc ra vô số sừng, vô số mắt và vô số cánh tay. Nếu Ma Long Tán đúng là chủ nhân của hồ tế, thì sinh vật sống dưới nước ấy hẳn phải là một thứ có nhiều xúc tu hay chân mềm như sứa hoặc bạch tuộc, tôi nói vậy có đúng không hả pháp sư Á La?" Lúc này, hình như có tên lính đánh thuê đã tìm được dụng cụ để băng qua mặt hồ, nhưng lại không dám khẳng định, bèn nhờ Thomas đến xem thử.
Đi được mấy bước, bên bờ hồ hiện ra một vật hình tròn nổi dập dềnh, không đầu không đuôi, chẳng có cạnh bên, cũng không có bánh lái, hơi giống như một cái nệm cói lớn, phỏng chừng còn mỏng hơn. Cũng có người cảm thấy nó giống như một lá bèo lớn nổi trên mặt nước, chất liệu rất kỳ quái, giống như là… đá!
Nếu Trác Mộc Cường Ba và Merkin ở đây, nhất định sẽ phát hiện, loại chất liệu nhân tạo nổi trên mặt nước này, gần như giống hệt chất liệu của những quả cầu đá hai người họ nhìn thấy trong các bình sứ. Tên lính đánh thuê đầu tiên phát hiện ra thứ này còn tưởng nó là một bệ đá nhô ra ven hồ. Trong suy nghĩ của chúng, đá chẳng thể nào nổi trên mặt nước được. Về sau có người đẩy một cái, cả bọn mới phát hiện ra thứ ấy có thể chuyển động, nổi dập dềnh trên mặt nước.
Một phiến đá ấy áng chừng đủ chỗ cho bảy tám người đứng lên trên, người trẻ tuổi sai một gã lính đánh thuê leo lên thử, cánh bèo bằng đá ấy không hề đung đưa dao động mà hết sức vững chãi. Bấy giờ, người trẻ tuổi mới gật gật đầu, nói: "Đúng nó rồi đấy."
"Xung quanh còn rất nhiều." Lại một tên lính đánh thuê khác báo cáo.
Người trẻ tuổi nói: "Tốt lắm, sáu người một nhóm, vừa khéo có thể ngồi thành hai hàng, tao sẽ dẫn đường, chúng mày cứ đi theo tao là được."
Y và ba người bọn pháp sư Á La cùng lên một cánh bèo đá, mũi bàn chân đẩy nhẹ vào bờ hồ một cái, cánh bèo liền dập dềnh trôi về phía giữa hồ. Người trẻ tuổi ấy cảnh cáo Lữ Cánh Nam: "Cô chớ nên có ý định gì, nhiệt độ của nước hồ này lên tới hơn tám mươi độ, rơi xuống chắc chắn sẽ bị bỏng nặng đấy, cho dù sống sót cũng bị hủy dung nhan." Lữ Cánh Nam nghe xong vẫn hờ hững, nét mặt thoáng vẻ khinh thường, còn Mẫn Mẫn thì tái mét cả mặt mày.
Bọn lính đánh thuê còn lại cũng chẳng nhàn rỗi, tên thì học theo người trẻ tuổi dùng chân đạp vào bờ, tên lại lấy bang súng làm mái chèo, nhưng cánh bèo bằng đá cứ xoay mòng mòng, thậm chí còn có mấy tên suýt chút nữa ngã lăn kềnh xuống nước, khó khăn lắm mới nắm được cách điều khiển thứ tròn tròn này tiến lên phía trước.
Sóng gợn lăn tăn trên mặt hồ nóng bỏng, hơi nước nghi ngút cũng theo làn sóng mà lúc tụ lúc tan. Vì có lời cảnh cáo lúc nãy của người trẻ tuổi kia, không gian tăm tối rộng mênh mông ấy giờ đã chìm vào tĩnh lặng, càng gần đến giữa hồ lại càng yên tĩnh, vô số cánh bèo đá cứ thế trôi dập dềnh trên mặt hồ nước trong gian đại sảnh khổng lồ.
Đến gần những đốm sáng hơn, bọn lính đánh thuê mới kinh ngạc nhận ra, những đốm sáng ấy chính là từ đáy hồ vọt lên. Những bong bóng nước thỉnh thoảng sủi lên từ đáy hồ, cuồn cuộn nổi lên mặt hồ rồi vỡ tung. Đúng vào khoảnh khắc ấy, tựa hồ có một sinh mạng mới được đản sinh, hóa thành một đốm sáng màu vàng như ngọn lửa pháo hoa đốt đêm giao thừa, không phát ra những tia sáng nhàn nhạt dìu dịu, mà liên tục bắn những tia lửa nhỏ ra xung quanh. Những tia lửa nhỏ tựa như những cái chân của đốm sáng, đẩy cho nó bay qua chạy lại, lượn lờ như tinh linh trên mặt hồ. Tinh linh màu vàng lướt vù ra đằng xa, đột nhiên sau lung họ lại xuất hiện một tinh linh màu lam nhạt, thoáng dừng lại trên mép một cánh bèo đá, vạch nên một vệt sáng hình số 8 trên không trung, rồi mới lướt đi chỗ khác.
Càng đến gần trung tâm hồ nước, những tinh linh đủ sắc màu ấy lại càng nhiều, nhiều nhất là màu đỏ, màu vàng kim, màu xanh lam, có cả những đốm sáng màu tím, màu hoa hồng hiếm gặp nữa, chúng không ngừng phát sáng lập lòe, bắn tóe tia lửa nhỏ ra xung quanh nên nhìn đẹp hơn những đốm sắc màu bình thường gấp bội. Có lúc, chúng như những chú bé nghịch ngợm tò mò xúm lại chỗ cánh bèo đá, lúc lại như cô bé thẹn thùng chạy túa ra xung quanh, nhưng phần nhiều chúng đều xoay chuyển, múa lượn trên không trung, vạch nên vô số vệt sáng đẹp mắt, khiến mặt hồ bị bóng đen bao phủ này thêm phần sống động. Mãi tới khi những tia lửa nhỏ không còn tóe ra nữa, ánh sáng mờ đi, các đốm sáng mới tắt lụi, tan biến vào không khí, song chỉ giây lát sau, bọt nước dưới đáy hồ lại nổi lên bắt đầu một màn trình diễn mới.
Bọn lính đánh thuê trông thấy cảnh tượng kỳ ảo, nhất thời quên khuấy mất mình đang ở đâu, ánh mắt mải dõi theo bóng dáng những tinh linh ánh sáng ấy, nhìn chúng sinh ra, nhảy múa, rồi tan biến, trong lòng cũng theo đó mà dâng lên hy vọng, hưng phấn, sau cùng chỉ còn lại nỗi buồn thương. Không hiểu sao, những kẻ giết người không chớp mắt này lại thấy chua xót trong lòng, khóe mắt rưng rưng… Cảnh tượng kỳ dị trước mắt không ngờ lại khiến chúng rung động hơn cả những bức tranh tập trung hết tinh hoa của văn minh nhân loại thời xưa dọc theo dòng sông khi nãy.
Kỳ dị hơn là, tên lính đánh thuê đầu tiên phát hiện cánh bèo đá không tiếp tục tiến lên nữa, bởi lúc y dùng báng súng làm mái chèo khua xuống nước, nước hồ bắn lên, không ngờ lại hóa thành những đốm lửa nhỏ li ti, cái báng súng kia cũng như thể vừa được nhúng xuống sông ngân, bên trên dính đầy ngôi sao nhỏ, chớp chớp lóe lóe rồi phụt tắt trong nháy mắt.
"A!" Mặc dù người trẻ tuổi kia đã cảnh cáo, tên lính đánh thuê đó vẫn sững sờ trước vẻ đẹp ấy, không kìm được phát ra một tiếng kêu kinh ngạc. Trên mặt hồ, vạn vật đều tĩnh lặng, tiếng kêu thảng thốt ấy của y vang đi rất xa. Một tên lính đánh thuê trên cánh bèo đá khác chợt cảm thấy cây cột đá đằng trước hình như hơi nhúc nhích, nhưng ngay sau đó, hắn lại cho rằng mình đã hoa mắt, cột đá làm sao nhúc nhích chứ.
"Không phải ngạc nhiên," người trẻ tuổi kia điềm đạm giải thích, "là thực vật thích nhiệt độ cao, một loài tảo có thể sống ở 90°C, bọn chúng lợi dụng khoáng chất trong hồ để tạo ra một loại enzyme huỳnh quang. Vật chất này hễ bị chấn động và tiếp xúc với không khí sẽ bị oxy hóa rồi phát ra ánh sáng, giống như pháo hoa vậy, đẹp lắm phải không?" Câu cuối cùng của y, hiển nhiên là dành cho Mẫn Mẫn.
Pháp sư Á La không khỏi ngấm ngầm kinh ngạc, nghe giọng điệu của người trẻ tuổi này có thể thấy kiến thức của y rất uyên bác, tuyệt đối không kém gì thân thủ siêu phàm mà y từng thể hiện. Ông lấy làm khó hiểu, ở đâu ra một gã trẻ tuổi lợi hại như vậy nhỉ?
Bọn lính đánh thuê lại bắt đầu khua mái chèo, phần lớn là vì muốn nhìn thấy những đốm lửa nhảy lên khỏi mặt nước sinh ra trên tay mình, rồi lại trở về với nước, vạch ra một vệt sáng như ánh sao băng.
Khi bọn họ vượt qua cây cột đá thứ nhất, đám lính đánh thuê ấy mới phát hiện, những cột đá này quả nhiên không nhẵn nhụi bằng phẳng, có chỗ hõm vào một mảng lớn, lại có chỗ lồi hẳn ra, phải chăng là bị nước hồ xâm thực? Không giống lắm, rõ rang là có dấu vết bàn tay con người điêu khắc.
Tiếp tục tiến lên, lai có người phát hiện, bên dưới mặt nước không chỉ có cột đá, mà còn có rất nhiều cọc đá, lại gần hơn nữa mới nhìn rõ những cọc đá ấy hóa ra lại là đầu Phật, còn cả tượng Phật bán thân, có lớn có nhỏ, có cao có thấp, quanh các tượng Phật còn quấn đầy thứ gì đó, trông như dây leo.
Chương trước | Chương sau