Con trai người bán thuốc lá đang rất sợ, và bố cậu cũng thế.- Vì lòng thương hại. hãy nói cho chúng ta những gì con biết đi, con trai. ông cầu xin con mình.
Hai người đến từ Hội đồng Kháng chiến Kuwait đã vô cùng lịch sự khi tự giới thiệu với ông bán thuốc lá, họ khẩn khoản muốn con trai ông thẳng thắn và tin tưởng họ. Người bán hàng, dù biết thừa những người đến thăm mang tên giả thay cho tên thật, cũng đủ khôn ngoan để nhận ra ông đang nói chuyện với những thành viên có thế lực và ảnh hưởng của dân tộc mình. Nhưng thật tệ khi ông bất ngờ biết con trai mình dính líu vào cuộc kháng chiến chủ động. Tồi tệ nhất, ông vừa mới được biết thằng con nối dõi không ở cùng với cuộc kháng chiến chính thức của Kuwait. mà đã bị nhìn thấy thả bom dưới một cái xe tải Iraq ở ngay giữa một bọn lạ mặt nào đó mà ông chưa từng nghe đến. Thế là đã đủ để bất kỳ người cha nào lên cơn đau tim rồi.
Bốn người họ ngồi trong căn phòng kín của ngôi nhà tiện nghi của người bán thuốc lá ớ Keifan trong lúc một trong số những người khác giải thích họ không có gì chống lại người Bedou nhưng chỉ đơn giản là muốn liên lạc với anh ta để có thể hợp tác với nhau.Cậu con trai giải thích điều gì đã xảy ra kể từ khi cậu bạn của mình đã bị tóm cổ sau một đống gỗ vào lúc- chuẩn bị bắn vào một cái xe tài lraq chạy nhanh. Những người đàn ông im lặng ngồi nghe, chỉ có một người đôi khi chèn vào một câu hỏi nào đó. Người không nói gì cả, người đeo cặp kính đen, chính là Abu Fouad.
Người hỏi đặc biệt quan tâm đến ngôi nhà mà nhóm đã gặp gỡ với người Bedou. Cậu con trai cho địa chỉ. rồi nói thêm:
bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
- Tôi không nghĩ đến đó là một ý hay đâu, anh ấy cẩn trọng lắm. Một người trong số chúng tôi một lần đã thử liên lạc với anh ấy, nhưng chỗ đó đã bị khoá. Chúng tôi không nghĩ anh ấy sống ở đó, nhưng anh ấy biết chúng tôi ở đó. Anh ấy nói chúng tôi không bao giờ được làm thế nữa. Nếu có điều gì xảy ra, anh ấy nói. anh ấy có thể bắt liên lạc, và chúng tôi sẽ không bao giờ gặp anh ấy được nữa.
Ngồi trong góc phòng, Abu Fouad gật đầu đồng tình.Không giống những người khác, ông là một người lính được đào tạo cẩn thận, và ông nghĩ đã nhận ra bàn tay của một người khác cũng được đào tạo chuyên nghiệp như thế.
- Khi nào cậu sẽ gặp anh ta nữa? anh từ từ hỏi.
- Không lâu đâu, anh ấy sẽ liên lạc một người trong số chúng tôi. Người được liên lạc sẽ báo cho những người khác- Có thể mất một thời gian.
Hai người Kuwait đi. Họ đã có miêu tả của hai chiếc xe: một xe tải vẻ ngoài giả trang làm người làm vườn mang rau quả của mình vào thành phố từ thôn quê, và một chiếc 4 bánh rất khoẻ để đi xa vào trong sa mạc.Abu Fouad đưa các số của hai chiếc xe cho một người bạn làm ở Bộ Giao thông, nhưng dấu vết đã bị xoá. Cả hai số đều không được đăng ký. Cái duy nhất là thông qua các thẻ căn cước mà người đàn ông có thể mang để vượt qua những chỗ dừng xe hà khắc của quân Iraq.
Qua Hội đồng của mình ông liên hệ được với một công chức tại Bộ Nội vụ, ông đã gặp may. Người đàn ông nhớ đã có một cái thẻ căn cước qua điện thoại cho một người làm vườn mang ra chợ bán từ Jahra. Đó là một ân huệ anh ta có thể làm cho nhà triệu phú Ahmed Al-Khahra 6 tuần trước.Abu Fouad sung sướng và bối rối, ông thương gia là một nhân vật có ảnh hưởng và được kính trọng trong phong trào. Nhưng ông ta chỉ lo về hoạt động tài chính, những thứ không bạo lực. Cái quái quỷ gì khiến ông trở nên ông chủ của người Bedou bí ẩn và đầy nguy hiểm đó?
Phía nam biên giới Kuwait, dòng thác quân sự Mỹ vẫn chảy vào. Khi tuần đầu tháng Chín đã trôi qua, tướng Norman Schwarzkopf, ngập trong công việc tại văn phòng phản gián hai tầng của Bộ Quốc phòng Xêut ở đường Sân bay cũ ở Riyadh. cuối cùng cũng nhận ra ông đã có đủ lực lượng để có thể tuyên bố Arập đã an toàn không lo bị Iraq tấn công nữa.Trên không, tướng Charles "Chuck" Horner đã xây dựng một tấm ô chắn bằng thép chắc, một loại lưới di động rất nhanh và rất có lực, những máy bay chiến đấu thả bom có khả năng ném bom. những máy bay tiếp nhiên liệu trên không, bom nặng, và máy bay chống tăng Thunderbolt, đủ để phá huỷ những quân Iraq cả gan đến trên đất liền và trên không.
Ông có công nghệ không trung đủ bao phủ ra đa trên mọi inch vuông của lraq, có thể cảm thấy mọi cử động của kim loại nặng trên mặt đường, chuyển qua sa mạc, mỗi lần cất cánh, có thể nghe mọi cuộc đàm thoại của lraq bằng sóng không trung và phát hiện mọi vụ nổ.Trên mặt đất, Norman Schwarzkopf biết ông giờ đây đã có đủ các đơn vị, vũ khí nặng cũng như nhẹ, pháo binh, và bộ binh để đón tiếp mọi đơn vị quân lraq, cầm cự, bao vây, và tiêu diệt chúng.
Vào tuần cuối của tháng Chín, trong những điều kiện bí mật tuyệt đối mà không một người nào trong Liên minh được biết, nước Mỹ đã lên những kế hoạch để chuyển từ phòng ngự sang tấn công. Cuộc tấn công lraq đã được hoạch định. ngay cả khi Liên Hợp Quốc chỉ cho phép hạn chế quân đội để giữ an toàn cho Arập Xêut và những nước vùng Vịnh. Nhưng ông cũng có những vấn đề riêng. Một trong số đó là số lượng quân đội, súng ống, xe tăng của Iraq đang bày ra để chống lại ông đã tăng gấp đôi kể từ khi ông đến Riyadh vào sáu tuần trước. Một vấn đề khác là ông có thể cần tăng gấp đôi lực lượng Liên quân để giải phóng Kuwait hơn là để đảm bảo cho Arập Xêut.
Norman Schwarzkopf là một người đã xem rất trọng câu nói của George Patton: Một người lính hay phi công Mỹ hay người Anh hay người Pháp hay bất kỳ người nào trong liên quân hy sinh đã là quá nhiều. Trước khi vào cuộc chiến, ông muốn hai điều: nâng gấp đôi số lượng quân lực ông hiện đang có và một cuộc tấn công trên không sẽ đảm bảo "giảm" 50% sức mạnh của các lực lượng lraq ở phía bắc biên giới.Điều đó có nghĩa là cần nhiều thời gian, trang thiết bị, dự trữ, súng, xe tăng, quân, máy bay, nhiên liệu, thực phẩm. và nhiều tiền hơn. Rồi ông nói với các Napoleon trong ghế bành ở đồi Capitol rằng nếu họ muốn có chiến thắng, thì tốt hơn hết là hãy để ông có được tất cả.
Ngài chủ tịch lịch thiệp phụ trách vấn đề nhân sự, Colin Powell, đã thông qua bản yêu cầu này, nhưng đã làm nhẹ bớt lời lẽ đi một chút Các nhà chính trị thích chơi trò lính tráng, nhưng họ lại ghét sử dụng ngôn ngữ lính tráng.Do đó việc lên kế hoạch của tuần cuối của tháng Chín là tuyệt đối bí mật. Liên Hợp Quốc, những kế hoạch hoà bình yếu ớt có thể chờ đợi đến ngày 29 tháng Mười một trước khi cho Liên quân sử dụng một lực lượng cẩn thiết để tấn công vào Iraq từ Kuwait trừ khi ông ta chịu rời đi vào 15 tháng Giêng. Việc lên kế hoạch đã bắt đầu vào cuối tháng Mười một, nó có thể không thể hoàn thành đúng lúc được.
Ahmed La-Khalifa vô cùng bối rối, ông biết Abu Fouad, dĩ nhiên, là người như thế nào. Hơn thế nữa, ông rất hiểu yêu cầu của ông ta. Nhưng ông đã đưa ra lời hứa, ông giải thích, và ông không thể làm trái được. Không thể cho người bạn kháng chiến này biết Bedou trên thực tế là sĩ quan người Anh. Nhưng ông cũng đồng ý chuyển một thông diệp cho Bedou tại nơi mà ông biết người đàn ông sớm hay muộn sẽ nhận được.Sáng tiếp sau ông để lại một bức thư, với lời khuyên cá nhân của ông gợi ý Bedou đồng ý gặp Abu Fouad, dưới tấm bia mộ của Able Seaman Shepton tại nghĩa địa Công giáo.
Có sáu người lính trong đội tuần tra, do một trung sĩ chỉ huy, và khi người Bedou đến góc phố, cả hai bên đều bị bất ngờ. Mike Martin đã đỗ chiếc xe tải nhỏ của mình trong chiếc gara bí mật và đang đi bộ qua thành phố đến ngôi biệt thự mà anh đã chọn cho đêm nay. Anh đang mệt, và không giống thường lệ, sự cảnh giác của anh bị cùn di. Khi anh trông thấy những tên lraq và biết chúng đã nhìn thấy anh, anh tự nguyền rủa mình. Trong nghề của mình, người ta có thể chết vì một giây lơ là cảnh giác.
Đã là sau giờ thiết quân luật, và dù anh thường xuyên di chuyển trong thành phố khi nó đã trống trơn những người công dân tuân thủ luật pháp và chỉ có các đội tuần tra Iraq còn đi lại. anh luôn đi men vào trong phố, đi qua những lối đi tối đen đất mềm, và đi vào những ngõ tối om, như những người Iraq đi trên các đường cao tốc và tới những chỗ rẽ. Cách đó, anh không bao giờ làm động đến ai cả.Nhưng sau khi Hassan Rahmani quay trở lại Iraq và báo cáo đầy sự cảnh báo của anh ta về sự vô dụng của Quân đội Nhân dân, một số thay đổi đã được thực hiện. Lính Mũ xanh của lực lượng đặc biệt Iraq đã bắt đầu xuất hiện. Dù không được xếp ngang hàng với Vệ binh Cộng hoà, các lính Mũ xanh vẫn ít nhất có kỷ luật hơn những tên lính có tên Quân đội Nhân dân. Có sáu người trong số đó đang đứng yên lặng cạnh chiếc xe tải của mình tại một góc phố thường không bao giờ có người Iraq hết cả.
Martin chỉ còn đủ thời gian để tì người vào cái gậy anh vẫn mang theo và lấy dáng điệu của một ông già. Đó là một dáng vẻ tốt, trong văn hoá A rập người già được kính trọng hay ít nhất là thông cảm.
- Này ông kia, viên trung sĩ kêu lên. Lại đây nào.
Bốn khẩu súng trường chĩa vào keffiyeh của người đang bị giữ lại. Ông già dừng lại, rồi chậm chạp tiến lại.
- Ông làm gì vào cái giờ này bên ngoài hả Bedou?
- Chỉ là một ông già đang đi về nhà trước giờ thiết quân luật thôi mà. sayidi, người đàn ông trả lời.
- Đã quá giờ thiết quân luật rồi, điên à! Quá hai tiếng rồi.
Người đàn ông lắc lắc tay lo lắng.
- Tôi có biết đâu. sayidi. Tôi không có đồng hồ mà.
Ớ Trung Đông đồng hồ không phải thứ cần thiết lắm. chỉ là dấu hiệu cho sự giàu có mà thôi. Lính Iraq đến Kuwait đổ xô đi mua đồng hồ. Nhưng từ Bedouin. bidun, nghĩa là không có gì.Trung sĩ nhăn mũi. Lời xin lỗi có thể hiểu được.
- Giấy tờ. anh ta nói.
Ông già lấy tay lục lọi trong áo của mình.
- Có vẻ như tôi làm mất rồi: ông than vãn.
- Khám lão ta. trung sĩ nói. Một trong số những người lính tiến lên trước. Quả lựu đạn nằm bên đùi trái anh tạo cảm giác như một quả dưa trên xe anh.
- Đừng có chạm vào mấy hòn của tôi, ông lão Bedou nói nhanh. Tên lính ngừng lại. Một tên ở phía sau đưa lên một tiếng cười khùng khục. Viên trung sĩ cố giữ vẻ mặt bình thường.
- Nào tiếp đi. Zuhair. Khám lão ta đi.
Tên lính trẻ Zuhair ngần ngừ: bối rối. Anh ta biết lời đùa đang hướng vào mình.
- Chỉ vợ tôi mới dược phép chạm vào hòn của tôi thôi. người Bedou nói. Hai tên lính phá lên cười và hạ súng trường xuống. Những tên còn lại cũng làm như thế. Zuhair vẫn chần chừ.
- Nhớ đấy. không làm bà ấy thích dâu. Tôi đã trải qua những việc như thế rồi. ông già nói.
Thế là quá nhiều. Cả đội tuần tra lăn ra cười. Ngay cả viên trung sĩ cũng nhếch mép.
- Thôi được rồi. bố già. Đi đi. Và đừng có ra ngoài khi trời tối nữa dấy nhé.
Người Bedou đi khỏi góc phố, lần mò dưới bộ quần áo, ông ta rẽ ở góc phố. Quả lựu đạn, được để lại ở một bên, lăn đến những tên lính và dừng ngay trước mũi ngón chân của Zuhair.Tất cả sáu người nhìn chằm chằm vào đó. Đó là kết cục của 6 tên lính. Và cũng hết tháng Chín.Đêm hôm đó, rất xa Tel Aviv. tướng Kobi Dror của Mossad ngồi tại văn phòng của mình ở toà nhà Hadar Dafna, uống một chút gì trong đêm khuya sau khi làm việc với một người bạn cũ và đồng nghiệp, Shlomo Gershon. thường được biết đến với cái tên Sami.
Sami Gershon là chỉ huy các lính chiến của Mossad, hay Sư đoàn Komemiute, chịu trách nhiệm điều khiển những nhân viên bất hợp pháp, tức là phần rất quan trọng và nguy hiểm của nghề gián điệp. Ông là một trong số hai người ở đây khi sếp của ông đã hứa với Chip Barber.
- Ông không nghĩ là chúng ta có thể nói với họ à? Gershon hỏi, bởi vì chủ đề đã quay trớ lại.
Dror quay bia trong chai và nhún vai." Hãy xoáy họ lại", ông gầm gừ. "Để cho họ tự thuê lấy người của họ." Là một người lính trẻ trong mùa xuân năm 1967, Dror dã nằm dưới xe tăng của Patton trong sa mạc và chờ đợi trong khi bốn quốc gia Arập chuẩn bị có những thương thảo với lsrael một lần duy nhất.
Phần những người còn lại trong đội của mình, được chỉ huy bởi một người hai mươi tuổi, ông đã từng là một trong số những người dưới quyền Israel Tal, người đã chọc thủng Mitla Pass và dẫn quân đội Ai Cập quay trở lại kênh đào Suez.Và ông cũng nhớ là bằng cách nào, khi lsrael phá huỷ bốn quân đội và bốn không lực trong vòng 6 ngày, vẫn những báo chí phương Tây đó đã mó tay vào vào những việc của nước ông trong tháng Năm đã tố cáo Israel là đã thực hiện những chiến dịch bẩn thỉu.Từ lúc đó. triết lý của Kobi Dror đã được hình thành: xoắy chúng lại. Ông là một thanh kiếm, được sinh ra và lớn lên ở lsrael. và không hề có tầm nhìn hay bất cứ gì chung với những người như là David Ben Gurion.
Sự trung thành về chính trị của ông với đảng cực hữu Likud, với Menachem Begin. người đã từng ở Irgun. và Itzhak Shamir.Một lần, ngồi ở cuối lớp, nghe một trong số những giảng viên của mình giảng cho những lính mới, ông đã nghe người đó sử dụng câu "các cơ quan tình báo thân thiện '. ông đã đứng lên và đi ra khỏi lớp.
- Chẳng có ai là bạn của Israel, trừ người Do Thái ở nước ngoài mà thôi. ông nói với họ. Thế giới bị chia thành hai: kẻ thù chúng ta và những người trung lập. Kẻ thù của chúng ta thì chúng ta biết phải xử trí thế nào.
Còn những người trung lập. hãy lấy mọi thứ, không trao lại thứ gì. Hãy mỉm cười với họ, xử họ sau lưng, uống với họ, nịnh nọt họ, cám ơn họ đã tốt bụng. và không nói gì với họ hết cả.
- Tốt, Kobi, chúng ta hãy hy vọng họ không bao giờ tìm ra cả. Gershon nói.
- Làm thế quái nào được? Chỉ có 8 người trong số chúng ta biết thôi. Và tất cả đều ở trong Văn phòng.
Đó hẳn là do bia. Ông đâ lột mặt nạ ai đó.
Vào mùa xuân năm 1988 một doanh nhân người Anh tên là Stuart Harris tham dự một hội chợ công nghiệp ở Baghdad. Ông là giám đốc bán hàng của một công ty ở Nottingham đã làm và bán các thiết bị làm đường. Hội chợ được tổ chức bởi Bộ Giao thông Iraq. Giống như phần lớn những người phương Tây.Ông ớ tại khách sạn Rashid ở phố Yafa, được xây dựng chủ yếu cho người nước ngoài và thường xuyên được theo dõi cẩn mật. Vào ngày thứ ba của cuộc triển lãm. Harris quaỵ trở lại căn phòng của mình để tìm một cái phong bì không để dưới cửa. Không có tên trên đó, chỉ có số phòng, và số là đúng.
Bên trong chỉ có một trang giấy và một cái phong bì cùng kiểu phong bì bưu điện bình thường. Mẩu giấy viết bằng tiếng Anh và bằng chữ hoa: "Khi trở về London hãy chuyển phong bì này cho Norman ở Đại sứ quán lsrael."Đó là tất cả. Stuart Harris sợ điếng người, hoảng loạn. Ông biết tiếng tăm của lraq, của Cảnh sát mật đáng sợ của nước này. Dù sao đi nữa trong phong bì có cái có thể làm ông bị bắt, thậm chí bị giết.
Ông cố trấn tĩnh, ngồi xuống. và cố nghĩ ra cái gì đó. Tại sao lại là ông? Có hàng đống người Anh ở Baghdad cơ mà. Tại sao lại chọn Stuart Harris? Họ không biết ông là người Do Thái, rằng cha ông đã đến nước Anh vào năm 1935 từ nước Đức với cái tên Samuel Horowitz, liệu họ có biết được không?Dù ông không bao giờ tìm ra câu trả lời, thì đã có một cuộc nói chuyện hai ngày trước đó tại căng tin của hội chợ giữa hai công chức của Bộ Giao thông Iraq. Một người đã nói với người khác về chuyến thăm của mình đến nhà máy Nottingham mùa thu trước: về chuyện Harris là chủ nhà của ông ta vào ngày thứ nhất và thứ hai, rồi biến mất trong một ngày, rồi trở lại. Ông ta - người Iraq - đã hỏi liệu Harris có bị ốm không. Một đồng nghiệp đã cười và nói với ông ta Harris đã rời đi Yom Kippur.
Hai công chức người Iraq đã không nghĩ gì hơn về chuyện đó, nhưng một ai đó ở buồng bên cạnh thì có. Anh ta đã ghi băng lại cuộc trò chuvện để chuyển lên cho cấp trên của mình.Người đó tỏ ra không quan tâm đến chuyện này nhưng sau đó khá là suy tư và đã điều tra về ông Stuart Harris của Nottingham, ghi số phòng của ông ở Rashid.Harris ngồi và nghĩ ngợi phải làm điều gì bây giờ. Ngay cả nếu, ông suy luận, người gửi vô danh của cái thư đã phát hiện ông là người Do Thái, thì chỉ có một điều họ có thể không biết. Không cách nào hết cả. Bởi một tình cờ hết sức lạ lùng, Stuart Harris là một sayan.
Viện tình báo và các chiến dịch đặc biệt của Israel, được thành lập năm 1951 theo lệnh của đích thân Ben-Gurion, được nước ngoài biết đến dưới cái tên Mossad, tiếng Hebrew có nghĩa là "Viện". Trong những bức tường không bao giờ, không bao giờ nó được gọi là như thế. mà luôn là "Văn phòng". Giữa các cơ quan tình báo hàng đầu thế giới. nó là cái nhỏ nhất. Xét theo số lượng người, thì nó là tí hon. Trụ sở CIA ở Langley, Virginia, có khoáng 25.000 nhân viên, chưa kể các điệp viên cắm ở nước ngoài. Ở đỉnh cao của mình thời KGB đầu tiên, chịu trách nhiệm như CIA và Mossad đối với thu thập thông tin tình báo nước ngoài, có 15.000 nhân viên tạm thời khắp thế giới, khoảng 3.000 người ở trụ sở Yazanevo.
Mossad chỉ có khoảng từ 1.200 đến 1.500 nhân viên thường trực và không đến 40 nhân viên tạm thời, được gọi là katsa .Nó hoạt động với một ngân sách khá hạn hẹp, nhân viên ít và đảm bảo "sản phẩm" mà nó phụ thuộc vào hai yếu tố. Thứ nhất là khả năng của nó can thiệp tới người Israel - một dân tộc ở khắp nơi trên thế giới và chứa đựng sự đa dạng đến ngạc nhiên tài năng, ngôn ngữ, và những nguồn gốc địa lý. Yếu tố nữa là một mạng lưới quốc tế các cộng tác viên hay trợ lý, trong tiếng Hebrew là sayanim. Đó là những người Do Thái sống ở nước ngoài ( họ bắt buộc phải hoàn toàn mang dòng máu Do Thái không pha tạp) những người, mặc dù có khả năng trung thành với đất nước mình đang sống, sẽ rất sẵn lòng hỗ trợ quốc gia lsrael.
Riêng ở London đã có tới 2.000 sayanim, 5.000 ở phần còn lại của nước Anh, và 10 lần hơn thế ở Mỹ. Họ không bao giờ được đưa vào các chiến dịch, mà chỉ được yêu cầu giúp đỡ. Và họ phải được thuyết phục rằng sự giúp đỡ mà họ được đòi hỏi không phải cho chiến dịch chống lại đất nước họ sinh ra hay được tiếp nhận. Không được phép đối đầu với sự trung thành.Chẳng hạn: một đội Mossad đến London để thực hiện một chiếc dịch chống một đội Palestine nào đó. Họ cần một chiếc ôtô. Một sayan được yêu cầu để lại một cái xe đã qua sử dụng ở một chỗ nào đó với chìa khoá dưới đó. Nó sẽ được đưa trở lại đó, sau chiến dịch. Sayan không bao giờ biết được nó được sử dụng để làm gì.
Cùng một đội đó cần một "mặt trận". Một sayan giàu có cho mượn một cái cửa hiệu để không, và một sayan cung cấp kẹo và sôcôla. Họ cần một hòm thư: một sayan buôn bất động sản cho họ mượn chìa khoá một hộp thư văn phòng để không.Stuart Harris đi nghỉ ở trại của Israel ở Eilat, tại quán bar Red Rock, ông rơi vào cuộc tranh luận với một người Israel trẻ tuổi dễ mến nói tiếng Anh rất thạo. Ở trong một cuộc tranh luận tiếp sau, người Israel dẫn đến một người bạn, một người nhiều tuổi hơn, người bình tĩnh chấn chỉnh Harris vốn rất có cảm tình với đất nước Israel. Cuối kỳ nghỉ hè, Harris đã đồng ý rằng, nếu bao giờ có việc gì đó cần làm...
Cuối kỳ nghỉ Harris trở về nhà nói chuyện với vợ và được vợ đồng ý. Trong hai năm ông đợi cú điện thoại, nhưng không hề có. Tuy nhiên, một người khách thân thiện thường xuyên định kỳ đến - một trong số những công việc nhàm chán của các katsa ở trạm nước ngoài để giữ liên lạc liên tục với sayanim trong danh sách của mình.Thế là Stuart Harris ngồi trong phòng khách sạn ở Baghdad, một đợt sóng lo sợ dâng lên và tự hỏi không biết phải làm gì đây. Bức thư có thể là một sự khiêu khích - ông có thể bị can thiệp ớ sân bay khi cố đưa lậu cái gì đó ra. Luồn nó vào túi một người nào đó? ông không thể nào làm được chuyện đó. Và bằng cách nào ông có thể lấy lại được ở London?
Cuối cùng, ông tỉnh lại, bày ra một kế hoạch, và thực hiện nó hoàn hảo. Ông đốt phong bì bên ngoài và chữ viết trong một cái gạt tàn, vứt tàn đi, và vứt nó vào trong bồn cầu. Rồi ông giấu cái phong bì dưới vỏ chăn trên kệ trên tủ quần áoNếu căn phòng bị khám xét, ông có thể chỉ đơn giản thề là ông không bao giờ dùng đến chăn, không bao giờ trèo lên trên nóc tủ, và bức thư có thể là do người khách trước đây để lại
Tại một cửa hàng ngoài phố ông mua về một cái phong bì khác, cái nhãn, và băng dính; ông mua tem ở một bưu điện. thế là đủ để gửi một tạp chí từ Baghdad về London. Ông mua một tạp chí có hình ảnh Iraq từ hội chợ thương mại và đã dán tem cho cái phong bì cùng logo của cuộc triển lãm.Vào ngày cuối cùng, ngay trước khi rời khỏi để đến sân bay với hai đồng nghiệp của mình, ông lui vào phòng riêng. Ông luồn bức thư vào cuốn tạp chí và nhét nó vào trong phong bì. Ông ghi địa chỉ một người chú ở Long Eaton và dán nhãn cùng cái tem. Ông biết có một hòm thư, và bốn giờ nữa sẽ có chuyến lấy thư. Ngay cả nếu phong bì bị mở ra, ông vẫn có thể đi trước qua dãy Alps trong một máy bay Anh.
May mắn dành cho người can đảm và người điên rồ. Ông bị một người của AMAM theo dõi, để canh xem có người nước ngoài nào ra đi được tiếp cận hởi một người Iraq cố tuồn cho ông ta thứ gì đó. Harris để cái phong bì của mình dưới áo jacket. Một người ở sau một tờ báo trong góc nhà theo dõi ông, nhưng một cái xe hàng đi qua giữa họ khi Harris tuồn phong bì vào hòm thư. Khi người theo dõi nhìn lại được ông. Harris đã ra quầy thanh toán trả chìa khóa phòng.
Quyền tạp chí nhỏ đến nhà ông chú của ông một tuần sau đó Harris đã biết ông chú mình đang đi nghỉ, và ông có một chìa khoá dự phòng cho trường hợp hoả hoạn hay ăn cắp, ông đã sử dụng nó để vào nhà và lấy bưu kiện. Rồi ông mang nó theo đến Đại sứ quán Israel ở London và đề nghị gặp người đó. Ông được dẫn vào một căn phòng và được bảo ngồi chờ.Một người đàn ông trung niên đi vào và hỏi tên ông, hỏi vì sao ông muốn gặp "Norman". Harris giải thích, cầm chiếc phong bì gửi qua đường máy bay từ túi áo, và để nó lên trên bàn. Nhà ngoại giao lsrael trở nên tái nhợt, yêu cầu ông ngồi đợi tiếp, và đi ra khỏi phòng.
Toà nhà Đại sứ quán ở số 2 Palace Green là một cấu trúc đẹp nhưng những đường nét cổ điển của nó không để lộ những công nghệ quốc phòng mà nó có để quan hệ tới trạm Mossad London. Từ pháo đài ngầm dưới đất mà một người đàn ông trẻ hơn đã được triệu tập khẩn cấp. Harris đợi và đợi. Mặc dù ông không biết, nhưng ông đã bị nhìn từ một cái gương một chiều khi đang ngồi với cái bì thư trên bàn trước mặt ông. Ông cũng bị chụp ảnh, trong khi những người làm công tác lưu trữ kiểm tra để chắc chắn thực sự ông là một sayan và không phải là một tên khủng bố người Palestine. Khi bức ảnh Stuart Harris của Nottingham từ các tài liệu đã được kiểm tra với người đằng sau chiếc gương một chiều. người katsa trẻ tuổi cuối cùng cũng bước vào trong phòng.
Anh ta mỉm cười. tự giới thiệu mình là Rafi, và mời Harris bắt đầu câu chuyện của mình từ đầu, từ Eilat. Harris kể cho anh ta mọi chuyện. Rafi biết. mọi điều về Eilat (anh ta vừa đọc bản tài liệu đầy đủ), nên không cần kiểm tra lại. Khi câu chuyện đã đi đến Baghdad, anh ta trở nên chú ý hơn. Anh ta hỏi vài câu đầu tiên: cho phép Harris kể lại vào thời điểm của mình. Rồi các câu hỏi, rất nhiều, cho đến khi Harris kể nhiều lần mọi việc ông làm ớ Baghdad. Rafi không ghi chép gì hết cả; mọi điều đã được ghi âm lại rồi. Cuối cùng anh ta sử dụng chiếc máy điện thoại trên tường để có một cuộc nói chuyện thầm thì bằng tiếng Hebrew với một đồng nghiệp cao cấp hơn ở phòng bên cạnh.
Hành động cuối cùng của anh ta là cảm ơn Stuart Harris một cách chân tình, chúc mừng ông về sự dũng cảm và cái đầu lạnh, nhắn ông đừng bao giờ để lộ việc cho bất kỳ ai. và chúc ông có chuyến đi an toàn về nhà. Rồi Harris đi về.Một người đàn ông với chiếc mũ bảo hiểm, áo jacket dày, và găng tay cầm lá thư đi. Nó được chụp ảnh và chiếu tia X- quang. Đại sứ quán Israel đã mất một người vì bom thư, và không có ý định mất thêm một người nữa.
Cuối cùng lá thư được mở ra. Nó chứa hai mặt của giấy viết thư bằng vỏ hành được viết bằng mật mã. Bằng tiếng A rập.Rafi không nói được tiếng Arập. Cũng không ai khác tại trạm London đủ trình độ đọc tiếng Arập viết tay. Rafi gửi một bản sao và được mã hoá phức tạp bằng đài về Tel Aviv. rồi viết báo cáo chính thức theo mẫu mà Mossad gọi là NAKA. Bức thư và bản báo cáo được chuyển đến vali ngoại giao và đi chuyến bay tối bởi El Al từ Heathrow về Ben-Gurion.
Một chiếc xe có bảo vệ và đoàn hộ tống gặp người cầm thư ngay bên ngoài máy bay và đưa chiếc túi về cho ngôi nhà lớn ở đại lộ Vua Saul, nơi, ngay sau bữa sáng, đã nằm trước mặt vị hỉ huy bàn Iraq, một người katsa rất trẻ có năng lực tên là David Sharon.Anh ta có thể nói và viết tiếng A-rập, và điều anh ta đọc được trong hai tờ giấy vỏ hành đó của bức thư khiến anh ta thấy lại cảm giác từng có khi thả mình vào không trung trong chuyến huấn luyện với các Para.
Sử dụng chính máy chữ của mình, tránh cả thư ký lẫn máy tính, anh ta gõ bản dịch thô bức thư ra tiếng Hebrew. Rồi anh ta mang cả hai cái, kèm với bản báo cáo của Rafi rồi mang đến cho thượng cấp của mình, Giám đốc bộ phận Trung Đông.Bức thư cho biết người viết là một quan chức cao cấp trong các hội đồng cao nhất của chế độ Iraq và sẵn sàng làm việc cho Israel vì tiền - chỉ vì tiền mà thôi.
Có một chút ít hơn thế, một địa chỉ hòm thư bưu điện ở bưu điện trung tâm tại Baghdad để chờ sự trả lời. và đó là tất cả.Tối hôm đó, có một cuộc gặp cấp cao trong văn phòng riêng của Kobi Dror. Tại đó có ông và Sami Gershon, chỉ huy lính chiến. Cùng có cả Eitan Hadar, thượng cấp của David Sharon với tư cách giám đốc bộ phận Trung Đông, người đã nhận lá thư từ Baghdad buổi sáng hôm nay. Cả Sharon cũng được triệu tập.
Từ chỗ choáng váng, Gershon trớ nên khoái trá.
- Thật là hài hước, ông nói. Tôi chưa bao giờ thấy một cung cách tùy tiện, dở hơi đến thế. Kobi, tôi không thể gửi ai trong số người của tôi để kiểm tra lại chuyện đó. Rất có thể là gửi người đó đến chỗ chết. Tôi thậm chí chưa từng gửi một oter nào đến Baghdad để tìm liên lạc hết cả.
Oter nghĩa là một người Arập do Mossad sứ dụng để thiết lập liên lạc cơ sở với một người Arập quen biết khác, một nhân viên cấp thấp và đắt tiền hơn rất nhiều so với một katsa thực thụ người Israel.Gershon coi lá thư là vi phạm nguyên tắc. Bức thư là một sự điên rồ, xem qua rõ ràng là một chủ đích lừa đảo một katsa cấp cao đến Baghdad để bắt giữ. tra tấn, ra toà công khai, và bị hành quyết công khai. Cuối cũng, Dror quay sang David Sharon.
- Tốt thôi. David, anh cũng có lưỡi chứ. Anh nghĩ gì nào?
Sharon gật đầu tỏ vẻ tiếc.
- Tôi nghĩ chắc Sami đúng. Gửi một người tốt vào đó có thể là điên rồ lắm.
Eitan Hadar chiếu vào anh ta một cái nhìn cảnh cáo. Giữa các bộ phận, có một sự đối nghịch thường xuyên. Không cần phải trao vinh quang cho bộ phận lính chiến của Gershon như hế
- 99% cơ may cho thấy có một cái bẫy. Sharon nói.
- Chỉ 99% thôi ư? Dror hỏi tức tối. Thế còn 1% thì sao, hả anh bạn trẻ?
- Ôi, đúng là một ý tưởng điên rồi. Sharon nói. Nó chỉ xảy đến với tôi, cái một phần trăm có thể nói là thứ dở hơi, chúng ta có một Penkovsky mới đây.
Một sự im lặng chết chóc bao trùm. Từ ngữ treo trong không khí như một sự thách thức. Gershon thở hắt ra. Kobi Dror nhìn chằm chằm vào người phụ trách ban lraq. Sharon nhìn vào các đầu ngón tay của mình.Trong tình báo chỉ có bốn cách thức tuyển nhân viên cắm sâu vào các hội đồng cao cấp của một đất nước.Thứ nhất là cách ít nguy hiểm nhất: sử dụng một trong số những người mang quốc tịch của chính nước bạn, người được đào tạo một mức độ đặc biệt để đi sang một quốc tịch của quốc gia kia. Việc này gần như không thể thực hiện được, trừ khi người xâm nhậm được sinh ra và lớn lên tại nước được nhắm đến và có thể dễ dàng quay trở lại nước đó, với một câu chuyện nguỵ trang để giải thích cho sự vắng mặt của mình. Ngay cả khi đó anh ta sẽ phải chờ nhiều năm để leo lên và trở nên hữu dụng với sự xâm nhập các bí mật của một văn phòng - một nhân viên ngủ hàng chục năm trời.
lsrael đã là bậc thầy của kỹ thuật này. Đó là bởi vì. Khi Israel mới thành lập, người Do Thái ở đó đã lớn lên ở khắp thế giới Có những người Do Thái có thể trở thành người Maroc, người Algerie, người Libie, Ai Cập, Syrie, lraq, và Yemen. Đó là còn chưa nói đến tất cả những người từ Nga, Ba Lan, Tây âu, và Nam Bắc Mỹ.Thành công nhất trong số đó là Elie Cohen, sinh ra và lớn lên ở Syrie. ông đã tuồn được vào Damas với tư cách một người dân Syrie đã đi xa vài năm và bây giờ trở lại. Với cái tên Syrie mới của mình. Cohen trở thành người thân cận của các chính trị gia cao cấp, các công chức nhà nước, và giới tướng lĩnh thường thoải mái nói bô bô mọi thứ chuyện cho người chủ nhà bao dung của mình ở những bữa tiệc sang trọng ông tổ chức.
Mọi điều họ nói, bao gồm cả chiến dịch toàn bộ của chiến trận của Syrie, đều đến được Tel Aviv vào đúng thời điểm cho Cuộc chiến Sáu ngày.Cohen đã bị phát hiện, bị tra tấn, và đã bị treo cổ công khai tại quảng trường Cách mạnh ở Damas. Những đầu mối như thế là cực kỳ hiếm có và cực kỳ nguy hiểm.Nhưng nhiều năm đã trôi qua, những người Israel nhập cư độc đáo đã trở nên già cả; những con cháu sabra của họ không còn học tiếng Arập nữa và cũng chẳng mấy quan tâm đến những gì Cohen đã làm. Đó là bởi vì, vào năm 1990, Mossad có ít người nói tiếng Arập xuất sắc hơn ai đó có thể tưởng tượng.
Nhưng còn có một nguyên do thứ hai. Sự xâm nhập các bí mật của người Arập dễ thực hiện hơn ở châu Âu hay Mỹ. Nếu một quốc gia Arập mua một máy bay Mỹ, các chi tiết có thể lấy cắp dễ dàng hơn, và ít hiểm nguy hơn là ở Mỹ. Nếu một tay cao cấp của Arập có vẻ dễ tiếp cận, thì tại sao không làm thế để do thám ở châu Âu? Đó là tại sao, vào năm 1990. số lượng lớn các chiến dịch của Mossad hướng vào châu Âu và Mỹ với ít nguy cơ hơn là ở các quốc gia Arập có độ nguy hiểm cao.Ông vua của những đầu mối đó, là Marcus Wolf, người trong nhiều năm đã thống lĩnh mạng lưới tình báo ở Đông Đức. ông có được một lợi thế rất lớn - một người Đông Đức có thể dễ dàng trở thành một người Tây Đức.
Thời của mình "Mischa" Wolf đã tuồn được nhiều nhân viên của mình vào Tây Đức. Một trong số họ đã trở thành thư ký riêng của chính thủ tướng Willy Brandt. Sự đặc biệt của Wolf là ở chỗ người thư ký lạ đời đó đã trở nên không thể thiếu đối với vị bộ trưởng Tây Đức - người có thể sao chụp mọi tài liệu đi qua bàn của mình để chuyển về cho Đông Berlin.Phương pháp thứ hai là sử dụng một người của quốc tịch của cơ quan đối đầu, như là ai đó đến từ một quốc gia thứ ba. Nước được hướng tới biết rằng tay này là một người nước ngoài nhưng được thuyết phục anh ta là một người nước ngoài thân thiện, dễ mến.
Mossad cũng đã từng làm việc này một cách chói sáng với một người đàn ông tên là Ze'ev Gur Arieh. Tên khai sinh của ông là Wolfgang Lotz. sinh ở Mannheim, Đức, năm 1921. Wolfgang cao 6 fít, tóc vàng, mắt xanh, và còn là người Do Thái. Ông đến Israel như là một đứa trẻ, được lớn lên ở đây, mang tên Do Thái, chiến đấu với đội quân ngầm dưới đất Haganah. và trở thành một thiếu tá trong quân đội lsrael. Rồi Mossad sử dụng ông.
Ông được gửi trở lại về Đức trong hai năm để hoàn thiện tiếng Đức mẹ đẻ của mình và để "hợp thức hoá" với tiền của Mossad. Rồi, với một người vợ Đức dễ mến mới, ông nhập cư vào Cairo và mớ một trường dạy đua ngựa. Đó là một thành công lớn. Các sĩ quan Ai Cập thích giải trí với ngụa của mình, cộng thêm rượu sâm-panh do Wolfgang phục vụ, một người theo cánh hữu tốt tính, người Đức bài Do Thái mà họ có thể tin cậy được. Và họ đã tin cậy. Mọi điều họ nói đều được chuyển về Tel Aviv. Cuối cùng Lotz bị bắt, may mắn không bị treo cổ, và sau cuộc chiến Sáu Ngày đã được trao đổi lấy các tù binh người Ai Cập.
Nhưng thành công hơn cả là một người Đức thế hệ trước. Trước Thế chiến 2. Richard Sorge đã từng là một thông tín viên ở Tokyo, nói tiếng Nhật và có liên lạc trong chính phủ của Hideki Tojo. Chính phủ này ủng hộ Hitler và coi Sorge là một Nazi trung thành - chắc chắn ông đã nói ông là như thế. Chưa bao giờ Tokyo nghĩ được Sorge không phải là một người Đức Quốc xã. Trên thực tế, ông là một đảng viên Cộng sản Đức phục vụ cho Matxcơva. Trong nhiều năm ông đã chuyển các kế hoạch chiến tranh của chế độ Tojo về thẳng Matxcơva để nghiên cứu. Đòn lớn nhất của ông là lần cuối. Năm 1941, các đội quân của Hitler đã tập trung trước Matxcơva. Stalin cần biết khẩn cấp: nước Nhật liệu có tập trung tấn công Liên Xô từ các căn cứ Mãn Châu của mình không? Sorge đã tìm ra câu trả lời, câu trả lời là không. Stalin có thể chuyển 40.000 quân Mông Cổ từ phía đông sang Matxcơva. Khẩu đại bác châu Á đã đập tan quân Đức trong vài tuần, cho đến khi mùa đông ập đến và Matxcơva được cứu thoát.
Nhưng Sorge thì không; ông đã bị lột mặt nạ và bị treo cổ. Nhưng trước khi ông chết, các thông tin của ông đã thay đổi cả lịch sử.Phương pháp chung nhất trong việc đảm bảo an toàn cho một điệp viên trong nước được nhắm đến là cách thứ ba: rất đơn giản tuyển một người đã có "địa vị". Việc tuyển chọn có thể dễ dàng chậm rãi hay nhanh đến bất ngờ. Với mục đích này, những người dò tìm nhân tài phải lục tung giới ngoại giao để tìm kiếm một công chức cao cấp của phía bên kia tỏ ta chán chường, không thiết tha, không hài lòng, cay đắng, hay là dù thế nào đi nữa đủ để có thể tuyển.
Các đoàn đại biểu đi thăm các nước ngoài được nghiên cứu để thử xem liệu có thể lấy được ai đó, thử thách một thời gian rồi tiếp cận và trả tiền. Khi người dò tìm thông báo là "có thể". những người tuyển sẽ vào cuộc, thường là với một tình bạn bình thường trở nên sâu sắc hơn và nồng ấm hơn.Cuối cùng, "người bạn" gợi ý bạn mình có thể cho mình một ân huệ nhỏ; một phần nhỏ nhoi và không đáng gì về thông tin được yêu cầu.Một khi cái bẫy đã sập, thì không thể bước lùi được nữa, và chế độ mà người mới được tuyển phục vụ càng hà khắc họ càng kém mặn mà.
Các nguyên do để tuyển phục vụ cho nước khác thay đổi rất đa dạng. Người được tuyển có thể là đang mắc nợ, trong một cuộc hôn nhân không hạnh phúc, không được thăng chức, bị chế độ của mình xử tệ, hay chỉ đơn giản là muốn một cuộc sống mới thật nhiều tiền. Anh ta có thể được tuyển thông qua những điểm yếu của chính mình, về tình dục cũng như đồng tính, hay chỉ đơn giản là nói chuyện ngọt ngào và phỉnh nịnh.Giống như một số người Xôviết, như là Penkovsky và Gordievsky, thay đổi chiến tuyến do những nguyên do ý thức hệ dễ hiểu, nhưng phần lớn các điệp viên phản lại đất nước mình là do bởi họ chia sẻ một chút gì đó phù phiếm, một khuynh hướng mà họ thực sự là quan trọng.
Chương trước | Chương sau