Câu trả lời nằm ở vụ bắt giữ và những trách nhiệm gây nên cái chết khủng khiếp của người cha thân yêu của anh ta.
bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Sau đó, Badri thất vọng đã rơi vào tay Jericho, trong cuộc gặp ở băng ghế sau ôtô sau đám tang.
Người đàn ông tên là Jericho, có biệt danh là Mu'azib Đồ tể, cảm thấy an tâm với cuộc sống. Một sự thoả mãn lan truyền trong người ông ta, hiệu ứng có lẽ của mấy ngày vừa qua cộng dồn lại. Ông ta thử động cựa nhưng thấy mình không thể nhúc nhích. Hai sĩ quan người Mỹ đang nhìn xuống ông, nói bằng thứ ngôn ngữ ông ta không thể hiểu nhưng biết là không phải tiếng Anh. ông cố trả lời nhưng miệng ông không thể thốt ra lời nào.
Chiếc HS-125 quay về hướng tây nam, băng qua bờ biển Jordan và hạ xuống độ cao 10.000 fít. Trên Vịnh một dòng thác không khí tràn ngập ca bin, thậm chí dù chiếc máy bay đã giảm tốc độ gần như là đứng im.
Hai viên sĩ quan dựng ông ta dậy, không thể chống cự, thẳng đuỗn và không làm nổi gì, cố nói điều gì đó mà không có khả năng. Trên mặt nước xanh ngắt phía nam Aqaba, tướng Omar Khatib rơi từ trên máy bay và lao thẳng xuống dòng nước, nơi không thấy có động tĩnh gì nữa cả. Lũ cá mập làm nốt phần còn lại.
Chiếc HS-125 quay về hướng bắc, bay qua Eilat sau khi đã quay trở lại không phận Israel, cuối cùng đậu xuống Sde Dov, sân bay quân sự nằm ở bắc Tel Aviv. Tại đó hai phi công cởi bỏ bộ quân phục lính Anh và viên đại tá là bộ quân phục Mỹ.
Cả bốn quay về với cấp bậc Israel thực sự của mình. Chiếc máy bay sử dụng được chuyển về Không lực Hoàng gia của mình, được sơn lại như trước, và trở lại tàu sân bay sayan ở đảo Cyprus nơi đã lấy nó đi.
Tiền từ Vienna đầu tiên đã được chuyển đến ngân hàng Kanoo ở Bahrain, rồi đến một ngân hàng khác ở Mỹ. Một phần được chuyển lại ngân hàng Hapoalim ở Tel Aviv và quay về cho chính phủ Israel; chính đó là số tiền Israel đã trả cho Jericho cho đến khi chuyển hắn sang cho CIA. Cán cân thanh toán, trên 8 triệu đôla, được chuyển sang cho Mossad dưới cái tên "Quỹ Vui vẻ".
Năm ngày sau khi chiến tranh kết thúc, hai chiếc máy bay trực thăng tầm xa khác của Mỹ trở lại các thung lũng vùng núi Hamreen. Họ chẳng hề xin phép gì. Xác của viên sĩ quan điều khiển hệ thống vũ khí của chiếc Eagle, thiếu uý Tim Nathanson, không bao giờ được tìm thấy. Đội Vệ binh đã bắn tung nó lên với những khẩu súng tự động của mình, và lũ chó rừng, cáo, quạ, và diều hâu đã làm nốt phần còn lại.
Cho đến bây giờ xương cốt hẳn vẫn nằm đâu đó trong những thung lũng lạnh lẽo đó, không tới 100 dặm đến nơi cha ông anh ta trước đây từng tới và bị dòng Babylon cuốn đi. Cha anh ta nhận được tin ở Washington, đọc kinh kaddish cho anh, và than thở một mình trong ngôi nhà ở Georgetown.
Còn xác của hạ sĩ Kevin North đã được đào lên. Khi những chiếc Blackhawk dừng lại, những bàn tay Anh chìa ra nâng hài cốt người hạ sĩ lên, được cho vào một túi đựng xác và trước tiên được mang về Riyadh rồi sau đó về nhà ở Anh trên chiếc Hercules chở hàng.
Khoảng giữa tháng Tư một buổi lễ ngắn gọn được tổ chức tại đại bản doanh của SAS ngoại ô Hereford.
Không có nghĩa trang nào dành riêng cho người của SAS; không nghĩa trang nào nhận xác của họ. Nhiều người trong số họ đã nằm lại tại các chiến địa ngoại quốc mà tên tuổi phần lớn không ai biết.Một số nằm lại dưới cát sa mạc Libya, nơi họ cảm thấy trận chiến Rommel năm 1941 và 1942. Những người khác ở các đảo Hy Lạp, dãy núi Abruzzi, Jura, và Vosges. Họ nằm rải rác ở Malaysia và Borneo, ở Yemen, Muscat và Oman, trong những khu rừng nhiệt đới và dòng nước lạnh giá và dưới nước lạnh của Bắc Băng Dương ngoài Falkland.
Khi xác họ được đào lên, họ được mang trở về nước Anh, nhưng thường xuyên họ được chuyển về cho gia đình để mai táng. Ngay cả khi đó, sẽ không có tấm bia mộ nào nêu tên SAS, mà là phiên đội của một đơn vị độc đáo từ đó người lính đến SAS - Bộ binh, Lính dù, Vệ binh, hay bất cứ gì khác.
Chỉ có một công trình. Giữa Stirling Lines ở Hereford có một tháp không cao bằng đá, được xây bằng gỗ và sơn màu sôcôla nâu. Trên đỉnh một chiếc đồng hồ chỉ thời gian, nên nó được gọi một cách đơn giản là Tháp Đồng hồ.
Quanh căn cứ của họ là những tảng đồng cứng, trên đó có ghi tên và địa điểm nơi họ chết. Tháng Tư đó, có năm cái tên mới được viết lên. Một bị lính Iraq bắn khi bị bắt, hai bị giết khi đấu súng khi cố vượt qua biên giới Xêut. Người thứ tư chết vì bệnh thương hàn sau hai ngày trong quần áo mỏng và thời tiết lạnh giá. Người thứ năm là hạ sĩ Kevin North.
Nhiều chỉ huy trước đây của các phiên đội đã đến vào cái ngày mưa gió đó. John Simpson đến, và Viscount Johnny Slim và ngài Peter. Giám đốc Lực lượng đặc biệt, J.P. Lovat cũng ở đó và đại tá Bruce Craig, khi đó là CO. Và thiếu tá Mike Martin cùng một số ít người khác.
Bởi vì giờ đây họ đã ở nhà, những người còn phục vụ có thể hiếm khi được nhìn thấy đội mũ bêrê với biểu tượng chiếc dao găm và khẩu hiệu "Chiến thắng dành cho người dũng cảm".
Đó không phải một buổi lễ kéo dài. Các sĩ quan và những người khác nhìn công trình bên ngoài, những cái tên mới được khắc lên bằng chữ đậm và màu trắng lên đồng. Họ chào và đì, quay về với những toà nhà lộn xộn.
Ngay sau đó, Mike Martin đi đến chiếc ôtô nhỏ đang đỗ ở trong công viên của mình, lái qua cánh cổng có lính gác, và quay trở về ngôi nhà ven biển anh có trong một ngôi làng trên dãy đồi Herefordshire.
Trong khi lái xe anh nghĩ về mọi chuyện đã xảy ra trên đường phố và sa mạc Kuwait; và trên bầu trời phía trên; và trong những thung lũng và chợ Baghdad; và dãy đồi Hamreen. Vì là một người kín đáo, chí ít anh cũng hài lòng về một điểm: Đó là không ai có thể biết được hết cả.
HẾT.
Chương trước