Barber đi đến một cái điện thoại trong phòng khách và gọi cho đại bản doanh ngầm dưới đất của CENTAF. Chỉ có một người mà anh cần nói chuyện.
bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Tướng Chuck Horner cần ngủ rất ít. Không ai khác trong các văn phòng Chỉ huy Liên quân dưới Bộ Quốc phòng Xêut của đại bản doanh CENTAF dưới toà nhà của Không lực Xêut trên đường Old Airport ngủ nhiều trong những tuần đó, nhưng tướng Horner là người ngủ ít nhất.Khi đội bay yêu quý của ông đang bay và đang chao lượn tận bên trong lãnh thổ kẻ thù, ông không hề cảm thấy có thể ngủ được. Khi chuyến bay đã được thực hiện hai bốn giờ mỗi ngày, thì lại càng có ít thời gian để ngủ hơn.
Ông có một thói quen đi dạo trong các văn phòng của toà nhà CENTAF vào lúc giữa đêm, đi từ chỗ các nhà phân tích của Hố Đen dọc đến Trung tâm Chiến thuật Bay. Nếu một cú điện thoại kêu lên một cách không chờ đợi và ông đang ở gần đó, ông có thể trả lời được ngay. Nhiều sĩ quan Không lực thích đùa trong sa mạc, gọi về để hỏi điều gì đó, thấy mình được nói chuyện với chính ông chủ.
Đó là một thói quen dân chủ, nhưng nhiều khi mang lại bất ngờ. Trong một lần một chỉ huy đội bay, người sẽ phải giữ bí mật tên, gọi để than phiền rằng các phi công của anh ta đang chạy trong đêm một chiếc máy A ba lần trên đường đến mục tiêu của mình. Liệu các tay súng Iraq có thể bị quét sạch bởi một chuyến thăm từ các máy bay ném bom nặng được không, hở Buff?Tướng Horner nói với viên trung tá rằng điều đó là không thể được - các Buff đều đã được trao nhiệm vụ đầy đủ. Người chỉ huy đội bay ở bên ngoài sa mạc phản đối, nhưng câu trả lời vẫn giữ. nguyên. Tốt, viên trung tá nói, trong trường hợp đó ông có thể bú tôi đi.
Rất ít sĩ quan có thể nói với một vị tướng toàn quyền làm điều đó và làm điều đó. Việc này nói lên rất nhiều phương pháp của Chuck Horner với các đội bay của mình, hai tuần sau người chỉ huy đội bay đó đã được thăng vượt cấp lên tướng.
Chính theo cách này mà Chip Barber tìm thấy Horner đêm đó, ngay trước khi một giờ đêm; ông gặp vị tướng trong văn phòng riêng ở toà nhà dưới lòng đất 40 phút sau đó.
Vị tướng đọc bản viết bằng tiếng Anh từ nhóm ở Riyadh. Barber đã sử dụng máy chữ để đánh dấu một số phần - trông nó không còn giọng một thông tin điện đàm nữa.
- Cái thông tin khác này của sự diễn giải của anh là từ các cuộc phỏng vấn các doanh nhân ở châu Âu đấy hả? ông châm biếm hỏi.
- Chúng tôi tin thông tin này là chính xác, thưa tướng quân.
Horner nhăn mặt. Cũng giống như những chiến binh khác, ông có ít thời gian cho thế giới giả trang. Còn hơn thế. Nguyên nhân thật đơn giản. Chiến đấu được dành cho sự tìm kiếm sự lạc quan - lạc quan tếu cũng có thể, nhưng tuy nhiên vẫn là lạc quan hoặc không ai có thể dự phần vào đó. Thế giới tình báo được dành cho giả thuyết sự bi quan. Hai triết lý có rất ít điểm chung, và thậm chí ở bước đó của cuộc chiến Không lực Mỹ đã trở nên ngày càng sôi mấu bởi những gợi ý nhắc đi nhắc lại của CIA rằng nó đã phá huỷ được ít mục tiêu hơn là đã tưởng.
- Và có thể cho rằng là mục tiêu gắn với đó tôi nghĩ? Vị tướng hỏi.
- Chúng tôi chỉ tin nó là rất quan trọng, thưa ngài.
- Tốt, điều thứ nhất, thưa ngài Barber, chúng tôi sẽ xem xét mẹ kiếp, vấn đề này.
Lần này một chiếc TR-1 ra ngoài Taif để thực hiện những chiến công hiển hách. Một phiên bản được nâng cấp của U-2 đời cũ TR- 1 đã được sử dụng như một loại máy thu thập thông tin đa chức năng, có khả năng bay trên Iraq mà không bị nhìn thấy và nghe thấy, sử dụng công nghệ của mình để nằm sâu vào trong hàng phòng thủ cùng với rađa tưởng tượng ra và nghe ngóng trang thiết bị. Nhưng nó vẫn có các camera và đôi khi vẫn được sử dụng không phải để chụp ảnh cỡ lớn mà chỉ cho một nhiệm vụ bí ẩn nhỏ bé nào đó. Nhiệm vụ chụp ảnh một địa điểm chỉ dược biết tên là Al Qubai là một đặc vụ nhỏ bé như ai đó có thể đoán ra.
Có một lý do thứ hai để chọn TR- 1 : Nó có thể chuyển các bức ảnh của mình vào thời điểm thực sự. Không chờ phải trở về. truyền tải TARPS, rửa phim, và đưa thẳng về Riyadh. Khi chiếc TR-l đang thám tiễu trên đường sa mạc đã được định vị phía tây Baghdad và nam căn cứ quân sự Al-Muhammadi, các hình ảnh nó thấy đã đến thẳng một màn hình vô tuyến trong căn cứ của đại bản doanh nằm ở Không lực Xêut.
Có năm người đàn ông ở trong phòng, gồm kỹ thuật viên vận hành màn hình và là người có thể. theo lệnh từ một trong số bốn người kia, lệnh cho máy tính giữ lại một khung hình và in ra ngay lập tức để nghiên cứu.Chip Barber và Steve Laing đang ở đó, hiền dịu trong bộ đồ dân sự ở thánh địa của khí tài quân sự đó; hai người còn lại là đại tá Beatty của USAF và chỉ huy đội bay Joe Peck của RAF, cả hai đều là chuyên gia về phân tích mục tiêu.
Lý do sử dụng Al Qubai chỉ đơn giản là nó gần mục tiêu hơn chỉ vì nó quá nhỏ bé để có thể hiện ra trên các bản đồ của họ, nó là điểm tham chiếu đi kèm và miêu tả rất quan trọng đối với các nhà phân tích.Chiếc TR-l tìm ra nó cách vài dặm điểm tham chiếu do Jericho gửi, nhưng ở đó không vấn đề gì rằng miêu tả đã chính xác, và ở đó không hề có địa điểm nào gần đó từ xa hợp với miêu tả.Bốn người nhìn vào mục tiêu đang hiện dần ra, lưu lại khung hình đẹp nhất, và giữ lại. Máy in ra một bản để nghiên cứu.
- Ớ dưới này chăng? Laing thở hổn hển
- Hẳn là thế rồi, đại tá Beatty nói. chẳng có gì khác giống thế trong hàng dặm xung quanh hết cả.
- Chấy rận thật, Peck nói.
Al Qubai trên thực tế là một nhà máy chế tạo nguyên tử cho chương trình nguyên tử toàn Iraq của tiến sĩ Jaafar Al- Jaafar.
Một kỹ sư nguyên tử người Anh một lần đã nhận xét rằng đội cùng làm của anh ta là "l0% thiên tài và 90% ngu ngốc". Thậm chí còn có phần hơn thế. Nhà máy chế tạo là nơi đội đó tạo ra sản phẩm của các nhà vật lý, các tính toán của các nhà toán học và các máy tính, và các kết quả của các nhà hoá học và tổng hợp tất cả lại để thành sản phẩm cuối cùng, chính các kỹ sư nguyên tử đã thực sự làm cho thiết bị trở thành một linh kiện kim loại có thể di chuyển được.
Iraq đã chôn nhà máy Al Qubai của mình hoàn toàn dưới sa mạc, sâu tới 80 fít, và đó chính là độ cao của mái. Bên dưới, 3 tầng xưởng chạy sâu xuống dưới. Điều khiến chỉ huy Đội Peck phải thốt lên chấy rận thật" là kỹ năng với nó nhà máy đã được nguỵ trang.Không khó lắm để xây dựng cả một nhà máy ở dưới lòng đất, nhưng nguỵ trang nó lại gặp phải những vấn đề lớn. Một khi nó đã được xây dựng trong cái hố khổng lồ của mình, cát có thể làm hiện hình những bức tường thép và trên mái trừ khi toà nhà được xoá sạch đi. Cho toà nhà chìm xuống dưới tầng thấp nhất có thể phải đối mặt với vấn đề nước thải.
Nhưng nhà máy sẽ cần phải có điều hoà nhiệt độ; điều này đòi hỏi đưa vào một máy lọc không khí và một kiểu máy to đùng - cả hai đầu ống sẽ đều phải tòi ra trên nền sa mạc. Nó cũng sẽ cần có rất nhiều năng lượng điện và do đó một máy phát điện diesel mạnh. Nó cũng rất cần một lắp đặt không khí và bộ phận xả lại thêm hai ống nữa.Lại còn cần một máy đi hoặc một thang máy chở người và một máy chở hàng để chuyên chở và đi lại cho nhân viên và dụng cụ - một cấu trúc làm lộ lên trên mặt đất nữa. Những xe tải chuyên chở sẽ không thể chạy trên nền cát mềm; nó cần có đường nền cứng, phải có nhựa đường chạy chí ít trên đường chính.
Cũng sẽ phải có các máy khí nóng, sử dụng được trong ngày khi bên ngoài rất nóng, nhưng không còn được như thế trong những đêm giá lạnh.
Do đó làm cách nào có thể nguỵ trang khỏi sự giám sát từ không trung một vùng đất sa mạc trinh nguyên có chứa một con đường trải nhựa có vẻ như không chạy đến đâu, bốn cái ống chính, một đường thang máy, điểm đến và đi cố định của các xe tải, và các máy sưởi thường xuyên sử dụng?Chính đại tá Osman Badri, thiên tài trẻ tuổi của Quân giới lraq, đã làm được điều đó; và giải pháp của anh ta làm điên tiết cả Liên quân với tất cả những máy bay do thám của mình.
Từ không trung, Al Qubai là một cái sân di động chiều ngang 5 acre chiều dài 40 acre. Mặc các con mắt quan sát ở Riyadh, ngay cả với những dụng cụ tốt nhất, cũng không thể nhìn thấy được nó, bốn trong số những cái xe vứt ngổn ngang - những vòm vững chắc với kim loại cuộn - dưới đó các ống được đưa ra ngoài không khí hoặc được lọc khí qua các thân xe ôtô và xe tải gãy.
Vùng chính, xưởng cán thép, với những cái thùng to bằng thép chứa ôxy và axêtylen được đặt một cách bướng bỉnh bên ngoài, che giấu lối vào của các thang máy. Sự tự nhiên của ngôi nhà ở một chỗ như thế chứng tỏ một nguồn khí ấm. Lý do khiến con đường đi vào không bị nhìn thấy thật rõ ràng - các xe tải chở những chiếc xe vứt đi đến đó rồi chở thép đi
Toàn bộ hệ thống thực sự đã được nhìn thấy trước bởi AWACS, cái đã thông báo nhìn thấy một khối lượng kim loại khổng lồ ngay giữa sa mạc. Liệu đó có phải là sư đoàn xe tăng? Một đập nước? Một chuyến bay do thám đã sớm được thực hiện trả lời đó chỉ là một bãi rác xe hơi, và mối quan tâm liền bị bỏ qua.
Cái mà bốn người đàn ông ở Riyadh cũng không thể nhìn thấy là bốn đống xác xe hơi khác cũng tạo nên những khung lớn, bên trong được tạo thành hình vòm, nhưng với các ống thuỷ lợi bên dưới chúng. Hai trong số chúng có chứa các khẩu đội pháo phóng không hoả lực mạnh, nòng ZSU-23-4 của Nga với nhiều phát bắn; cái khác là hai SAM, đời 6,8,và 9, không phải do rađa hướng lối mà là một kiểu dò tìm bằng sức nóng nhỏ hơn một đĩa rađa có thể hướng được lối.
- Vậy thì nó phải ở dưới đó, Beatty thì thầm.
Họ nhìn thấy cả một xe tải dài đang kéo các xác xe hơi cũ kéo đi. Nó có vẻ di chuyển trong những lối đi nhỏ, bởi vì TR-l, bay 80 nghìn fít phía trên Al Qubai, đã chạy qua vẫn các khung hình đó ở tỉ lệ nhiều giây. Phấn khích, hai sĩ quan tình báo nhìn cho đến khi chiếc xe tải lại quay trở về địa điểm cũ.
- Cá là đồ ăn, nước uống, và đồ tiếp tế đều ở dưới các xác xe hơi đấy, Beatty nói. ông ngồi xuống. Vấn để phức tạp là, chúng ta sẽ không bao giờ đến được cái nhà máy thối tha đó. Ngay cả khi các Buff có thể ném bom đạt đến độ sâu đó.
- Chúng ta có thể phong toả chúng, Peck nói. Phá vỡ đường vào ra, cố định chúng ở trong đó. Rồi nếu chúng thử cố các biện pháp cứu chữa để phá vây, chúng ta sẽ bắn chúng tung xác.
- Nghe hay đấy, Beatty đồng ý. Thế phải mất mấy ngày nữa mới tới ngày đổ bộ?
- Mười hai, Barber nói.
- Chúng ta có thể làm được điều đó. Độ cao, laser dẫn lối, nhiều máy bay, một chiếc gorilla.
Laing ném sang Barber một cái liếc xéo cảnh báo.
- Chúng tôi thích một cái gì đó kín đáo hơn một chút Barber nói. Một cuộc tiễu trừ hai chiếc, độ cao thấp, xác nhận bằng mắt thường sự phá huỷ.Một sự im lặng bao trùm.
- Người của anh đang cố nói chúng ta điều gì đó à? Beatty hỏi.
- Baghdađ không được phép biết là chúng ta đang quan tâm
- Thế có thể làm như thế được không? Laing gợi ý. Có vẻ như là chẳng có phòng thủ gì cả đâu. Chìa khoá ở đây là sự nguỵ trang thôi mà.Beatty gật đầu. Mẹ kiếp bọn này chứ, ông nghĩ. Họ đang cố bảo vệ ai đó đây mà. Tốt thôi, chẳng phải việc của ta. - Anh đang nghĩ gì thế hả Joe? ông hỏi vị chỉ huy đội bay.
- Các Tornado có thể làm được việc này, Joe Peck nói, cùng với các Buccaneer hướng mục tiêu cho chúng. Sáu quả bom một nghìn pound sẽ rơi đúng vào cửa của chỗ đó. Tôi cá cửa đó sẽ được gia cố ở bên trong đó. Có thể khó phá.
Beatty gật đầu.
- Tốt rồi, người của anh sẽ làm việc đó. Tôi sẽ nói lại với tướng Horner. Anh thích sử dụng ai hả Joe?
- Đội 6, à 8, ở Maharraq. Tôi biết viên sĩ quan, Phil Curzon. Tôi gọi anh ta đến đây nhé?
Chỉ huy bay Philip Curzon chỉ huy mười hai trong số những chiếc Tornado Panavia của Không lực Hoàng gia trong Đội 608, trên đảo Bahrain, nơi họ đã đến hai tháng trước từ căn cứ của mình ở Laarbruck, Đức. Ngay sau buổi trưa ngày hôm đó mồng tám tháng Hai, anh ta nhận được lệnh không được chối từ: ngay lập tức về trung tâm CENTAF ở Riyadh. Độ khẩn cấp lớn đến nỗi vào thời điểm anh biết được thông điệp, thì người sĩ quan cấp trên báo cáo rằng một chiếc Beach King phải từ Shakey's Pizza ở bề bên kia đảo đã đỗ xuống và đang đỗ đó chờ đón anh ta. Khi anh ta lên được chiếc Beach King sau khi đã vơ vội quân phục, anh ta phát hiện chiếc máy bay hai động cơ là thuộc về đích thân tướng Horner.
- Cái quái gì đang xảy ra đây? chỉ huy bay tự hỏi, rất băn khoăn.
Tại căn cứ quân sự Riyadh một chiếc ôtô chở người của USAF đang đợi để mang anh ta đi một dặm khỏi đường Sân Bay Cũ để đến Hố Đen.
Bốn người trên đã ở trong phòng họp để xem các bức ảnh do chiếc TR-l gửi về vào 10 giờ sáng vẫn còn ở đó. Chỉ thiếu người kỹ thuật viên. Họ không cần có thêm ảnh nữa. Những cái họ có được trải rộng trên mặt bàn. Chỉ huy đội Peck đang dẫn giải.
Steve Laing giải thích điều họ cần, và Curzon kiểm tra các bức ảnh.
Philip Curzon hoàn toàn không điên, hoặc là anh ta chưa từng chỉ huy một phi đội bay của những chiếc máy bay ném bom vô cùng đắt giá của Nữ Hoàng. Trong các phi vụ ít quan trọng trước với những quả bom JP-233 chống các địa điểm sân bay của Iraq; hai người anh biết đã chết. Hai người khác đã bị dẫn lôi đi, bị đánh và hành hạ, trên TV Iraq, một trong số các kiệt tác của PR của Saddam.
- Tại sao không đưa mục tiêu này vào danh mục Nhiệm vụ Không quân, giống như mọi cái khác? Anh trầm ngâm hỏi. Tại sao phải vội thế?
- Hãy để tôi nói thật thẳng thắn với anh, Laing nói. Chúng tôi giờ đây đã biết được mục tiêu này là đang chứa đựng cái chính yếu của Saddam và có thể chỉ chứa những đầu đạn khí độc rất nguy hiểm. Rõ ràng là các kho đang dần được chuyển ra ngoài mặt trận. Vì thế cần phải rất khẩn trương.
Beatty và Peck gật gù. Đó là lời giải thích đầu tiên họ nhận được cho mối quan tâm quá đáng vào cái nhà máy nằm dưới cái bãi rác.
- Nhưng mà hai máy bay tấn công thôi à? Curzon vẫn khăng khăng. Chỉ có hai? Như thế làm cho nó trở thành nhiệm vụ hết sức không quan trọng. Tôi sẽ nói thế nào với người của tôi đây? Tôi sẽ không nói dối họ đâu, thưa các ngài. Xin hãy nói thẳng thắn ra đi.
- Không cần đâu, Laing nói. Chỉ cần nói với họ sự thật mà thôi. Rằng kiểm soát từ trên không đã nhận ra các chuyển động của xe tải đến và đi khỏi địa điểm. Các nhà phân tích tin rằng đó là các xe tải quân sự, và họ đã đi đến kết luận rằng cái có vẻ vô hại đó che giấu một đống những thứ kinh tởm - đặc biệt là bên trong cái tảng khổng lồ trung tâm đó. Do vậy nó trở thành mục tiêu. Và còn với điệp vụ ít quan trọng, anh có thể thấy là sẽ không có tên lửa, không có loại A đâu.
- Và đó là sự thật chứ? Viên chỉ huy bay hỏi.
- Tôi thề mà.
- Thế thì tại sao, thưa các ngài, chủ định rõ thế rằng nếu bất kỳ ai trong số người của tôi sẽ bị bắn hạ và bị thẩm vấn, Baghdad có thể không moi được thông tin từ đó? Các anh không tin câu chuyện xe tải quân sự cũng như tôi vậy đâu.
Đại tá Beatty và chỉ huy bay Peck ngồi xuống. Người này quả thực khó chơi. Thật tốt.
- Nói với anh ta đi, Chip, Laing chào thua nói.
- Tốt thôi, chỉ huy bay, tôi sẽ nói với anh vậy. Nhưng chỉ là cho riêng anh thôi đấy nhé. Phần còn lại là hoàn toàn đúng. Chúng tôi có một tay trong. Trong đó. Vào trước chiến tranh như là một sinh viên sau đại học. Bây giờ anh ta đang say mê một cô gái Mỹ và muốn ở lại trong đó. Trong các cuộc phỏng vấn với người di cư, một số điều đã xảy đến. Một người phỏng vấn thông minh đã chuyển anh ta cho chúng tôi.
- CIA phải không? Curzon hỏi.
- Phải, đúng là CIA. Chúng tôi trò chuyện với chàng trai. Anh ta có thẻ xanh, đã cứu chúng tôi. Khi anh ta còn ở Iraq, trong Đội Công binh, anh ta đã làm việc với một số dự án bí mật. Giờ anh ta nói hết chúng ra. Nên chúng tôi biết được. Nhưng nó là tuyệt mật đấy. Nó sẽ không phải là sau nhiệm vụ, và sẽ không phải là nói dối nếu anh không nói với người của anh chuyện đó - nếu chẳng may, anh không thể làm.
- Câu hỏi cuối cùng nhé, Curzon hỏi. Nếu người đó an toàn trong đó, thì tại sao lại cần chơi đểu Baghdad một cú như thế?
- Còn có những mục tiêu khác anh ta hở cho chúng tôi nữa cơ. Mất thời gian, nhưng chúng tôi có thể có được 20 mục tiêu nóng sốt nhờ anh ta. Chúng tôi báo động Baghdad rằng anh ta đã hót như một con chim yến, họ đã rời các chỗ đó trong đêm rồi. Họ còn có thể thêm vào hai cái nữa, anh cũng biết đấy.
Philip Curzon đứng dậy và nhặt những bức ảnh lên. Mỗi cái đều có điểm tham chiếu chính xác trên bản đồ để kế bên.
- Tốt rồi. Rạng sáng ngày mai. Điểm này sẽ ngừng tồn tại. Rồi anh ta đi. Trên chuyến bay trở về anh ta mải mê nghĩ về nhiệm vụ. Cái gì đó bên trong nói với anh ta rằng mình đã bị lừa dối thảm hại. Nhưng những lời giải thích hoàn toàn có thể chấp nhận, và anh ta đã nhận lệnh. Anh không thể nói dối, nhưng anh đã bị cấm để lộ bất cứ gì. Phần tốt đẹp là, mục tiêu được đặt ở chỗ trống, không có bảo vệ. Người của anh ta có thể đến và đi về không gặp gì trắc trở. Anh đã biết người có thể đi thực hiện cuộc tấn công đó.
Chỉ huy bay Lofty Williamson đang sung sướng lắc lư trong một cái ghế trong ánh mặt trời buổi chiều khi tiếng chuông điện thoại vang lên. Anh ta đang đọc số mới nhất của tạp chí Không lực Thế giới, kinh thánh của phi công chiến đấu, và đang buồn chán đến chết một bài báo đầy chất mệnh lệnh về một trong số những máy bay thả bom của Iraq anh có thể phải lao vào.
Chỉ huy đội bay đang ở trong văn phòng của mình, những bức ảnh bày ra trước mặt. Trong một giờ đồng hồ anh trình bày ngắn gọn với thượng cấp của mình điều họ cần.
- Anh sẽ có hai chiếc Buck để đánh dấu mục tiêu cho anh, nên anh cần chuồn lẹ khỏi đó trước khi quỷ biết được điều gì xảy ra.
Williamson tìm thấy hoa tiêu của mình, người ngồi ở băng ghế sau mà người Mỹ gọi là wizzo, người giờ đây đã làm nhiều việc hơn chỉ là dẫn đường, đang chịu trách nhiệm các đồ điện tử và các hệ thống vũ khí. Trung uý bay Sid Blair đã nổi tiếng với khả năng tìm thấy được một cái vỏ lon trên sa mạc Sahara nếu cần phải ném bom.
Giữa họ, với sự trợ giúp của những người của Chiến dịch, họ đánh dấu trên bản đồ mục tiêu của phi vụ. Địa điểm chính xác của cái bãi rác được tìm thấy, từ chỗ tham chiếu của nó trên các bản đồ bay.
Viên phi công phàn nàn anh ta muốn tấn công từ phía đông vào đúng lúc mặt trời lên, để nếu có tay súng Iraq nào có thể giương súng lên trong mắt họ trong khi anh ta, Williamson, có thể nhìn thấy mục tiêu với độ chính xác cao.
Blair nhấn mạnh anh ta muốn một "stone bonker", một vị trí không thể nhầm lẫn dọc theo đó anh ta có thể có được những điều chỉnh là phút cuối cùng trong cuộc đi của anh ta. Họ tìm thấy hơn một dặm ngược lại khỏi mục tiêu trong một hướng lệch sang đông - một làn sóng điện đàm chính xác đúng một dặm từ chỗ đó.
Đến nơi vào lúc bình minh cho họ Thời điểm Mục tiêu cốt tử hay TOT, mà họ cần. Lý do TOT phải được làm theo đến từng giây là vì độ chính xác này quyết định sự khác biệt giữa thành công và thất bại. Nếu phi công thứ nhất bị chậm dù chỉ một giây, thì phi công thứ hai có thể theo đúng chính xác chỗ những quả bom của đồng nghiệp mình nổ; tệ hại hơn thế, phi công thứ nhất sẽ có một chiếc Tornado đến vào sau anh ta vào gần 10 dặm một phút - không phải một dấu hiệu hay. Cuối cùng, nếu phi công thứ nhất vào quá sớm hoặc phi công thứ hai vào quá muộn, các tay súng sẽ có thời gian để tỉnh giấc, hướng nòng súng của họ lên, và nhắm bắn họ. Do đó những người bay thế sẽ phải vào thật đúng khi có vụ nổ bùng lên dưới đất.
Williamson mang theo người bay cùng mình và hoa tiêu thứ hai, hai trung uý bay trẻ tuổi, Peter Johns và Nicky Tyne. Thời điểm chính xác khi mặt trời lên trên dãy đồi thấp ở phía đông mục tiêu đã được nhất trí là 7 giờ 8 phút, và cuộc tấn công sẽ trực chỉ vào 270 độ tây.
Hai chiếc Buccaneer từ Đội số 12, cũng đóng ở Maharraq, đã được chỉ định. Willamson có thể dựa vào các phi công ở đó trong buổi sáng. Các khẩu pháo đã được hướng về để cung cấp ba quả bom một nghìn pound trang bị các mũi laser hướng dẫn PAVEWAY cho mỗi chiếc Tornado. Vào tám giờ tối đó, bốn người trong đội ăn và đi ngủ, với đồng hồ đặt chuông chỉ 3 giờ sáng.
Vẫn còn tối om khi một người trong đội bay đi một chiếc xe tải đến những khu phố còn đang say ngủ của đội số 608 để mang bốn người lên chỗ bay.
Nếu những người Mỹ ở Al Kharz đã đi cày dưới canvas, thì những người đóng ở Bahrain vẫn còn vui vẻ với những tiện nghi cuộc sống dân sự. Một số đóng trong những căn phòng hai người ở khách sạn Sheraton. Những người khác trong những khu độc thân xây bằng gạch gần căn cứ không quân. Thức ăn rất tuyệt, đồ uống sẵn sàng, và sự cô đơn tệ hại nhất của đời lính chiến được giảm bớt đi bằng sự có mặt của 300 nữ phục vụ bay đang huấn luyện trong một trường huấn luyện của Không quân vùng Vịnh.
Những chiếc Buccaneer đã được đưa ra ngoài Vịnh chỉ một tuần trước đó, đầu tiên được nói là không được muốn. Kể từ đó, chúng đã thể hiện hơn cả giá trị của mình. Về bản chất là những chiếc đánh ngầm dưới nước, các Buck quen hơn với việc chìm sâu dưới nước của Biển Bắc tìm kiếm những quả thuỷ lôi của Xô viết, nhưng không hề để ý đến sa mạc.
Khả năng đặc biệt của chúng là bay thấp, và mặt dù chúng đã là những chiến binh già tới 30 tuổi, chúng được biết đến, trong những cuộc tập trận chung với USAF ở Trường Bay Không quân ở Miramar, California, để tấn công nhanh hơn rất nhiều những máy bay chiến đấu của Mỹ chỉ đơn giản bởi "ăn bẩn" - bay thấp đến nỗi trở nên không thể bị theo dọc theo các mô đấtt và ụ đất của sa mạc.
Sự đối nghịch trong nội bộ không lực sẽ có cái mà những người Mỹ không thích bay thấp và dưới 500 fít cố thấp hơn nữa, vì Không lực Hoàng gia thích điều đó và trên 100 fít thì không thể được nữa. Trên thực tế, cả hai chiếc đều bay thấp hoặc cao, nhưng những chiếc Buck, không siêu âm nhưng được chế tạo một cách tuyệt diệu, cho thấy chúng có thể xuống thấp hơn bất kỳ ai mà vẫn sống sót được.
Lý do sự xuất hiện của chúng ở vùng Vịnh là những thất bại ban đầu của những chiếc Tornado, ở những phi vụ thấp kỷ lục làm việc một mình, những chiếc Tornado phải ném bom rồi sau đó đi theo chúng mọi cách thức đến được mục tiêu, ngay vào trung tâm của hình tam giác chữ A. Nhưng khi chúng và những chiếc Bucaneer làm chung với nhau, bom của Tornado với mũi gắn PAVEWAY, trong khi những chiếc Buck có thiết bị truyền
laser, được gọi là PAVESPIKE. Lái bên trên và bên dưới một chiếc Tornado, một chiếc Buck có thể "đánh dấu mục tiêu, để chiếc Tornado định vụ bom và sau đó thổi tung tất cả.Hơn thế nữa, hệ thống PAVESPIKE của Buck được chứa trong một cái hộp hình ống chắc chắn ở bụng mình, bằng cách đó nó cũng có thể quay và vẫy, trong khi vẫn giữ tia laser thẳng vào mục tiêu cho đến khi bom đến và thổi đi.
Trong buồng lái, Williamson và hai phi công Buck đồng ý thiết lập IP của họ - tức là Điểm Đầu tiên, khởi điểm của bom - ở 12 dặm về phía đông của địa điểm cần ném bom. Rồi họ đi thay đồ bay. Như thường lệ, họ đã đến trong bộ đồ thường phục; ở Bahrain có quá nhiều dấu hiệu quân sự trên đường phố có thể đánh động người dân sở tại.
Khi họ đã thay đồ xong, Wilhamson với tư cách chỉ huy phi vụ điền vào báo cáo. Vẫn còn hai giờ nữa mới đến lúc cất cánh. Những phi công của chiếc "scramble" 32 của Thế chiến hai còn nhiều thời gian. Vẫn còn đủ để uống cà phê và bước sang bước tiếp theo của các chuẩn bị. Mỗi người cầm súng tay lên, một khẩu Walther PPK nhỏ đều đã được lắp đạn, cần đến nếu cuộc tấn công trong sa mạc cần bắn vào một cái đầu Iraq nào đó và hy vọng xử lý được bằng cách này.
Họ cũng rút 1000 bảng của mình bằng đồng tiền vàng và "goolie chít". Tài liệu đáng chú ý này lần đầu được người Mỹ đưa vào sử dụng ở Chiến tranh vùng Vịnh, nhưng người Anh, người đã bay chiến đấu trong khu vực này kể từ những năm 1920, hiểu rõ chúng. Một goolie chít là một thư bằng tiếng Arập và sáu thứ tiếng phương ngữ Bedouin. Nó nói rằng "Kính thưa ngài Bedou, người cầm lá thư này là một sĩ quan người Anh. Nếu ngài đưa anh ta về với đội tuần tra gần nhất của Anh, với sự an toàn tuyệt đối của anh ta, ngài sẽ được thưởng 5000 bảng bằng vàng". Đôi khi cách đó cũng được việc.
Các bộ quân phục bay đã được trang bị ở vai miếng kim loại để có thể được nhìn thấy bởi các đội tìm kiếm của Liên quân nếu phi công bị rơi xuống sa mạc.
Chương trước | Chương sau