Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe


Tác giả:
Đăng ngày: 15-07-2016
Số chương: 23
5 sao 5 / 5 ( 116 đánh giá )

Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe - Chương 17

↓↓

- Thế thì là một tập playboy chăng?

bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


- Chắc chắn là không rồi.


- Thế thì anh làm tôi tò mò rồi đấy. Anh biết đường chưa?


- Chưa. Tôi có giấy bút đây. Chỉ cho tôi nào.


Bố Lomax nói cho anh cách lên được nơi ông đang sống. Mất khá thời gian. Martin viết tất cả ra.


- Sáng mai nhé, nhà vật lý về hưu nói. Giờ thì quá muộn xe ô tô đấy lạc đường trong bóng tối mất. Và anh sẽ cần phải có bản đô


Một trong số hai chiếc E-8A J-STAR ở vùng Vịnh đã bắt được tín hiệu sáng đó, 27 tháng Giêng. Những chiếc J-STAR vẫn còn là những chiếc bay có kinh nghiệm và đang bay với các kỹ thuật viên dân sự ở trên khi chúng bị lao xuống trong sớm tháng Giêng từ căn cứ của mình ở nhà máy Grumman Melbourne ở Florida nửa đường thế giới sang A rập. Sáng đó, một trong hai chiếc đang bay trên căn cứ không quân Riyadh cao trên biên giới Iraq, vẫn còn ở trong lãnh thổ Saudi, nhìn bằng chiếc rađa Norden xuống và sang bên hơn một trăm dặm vào trong sa mạc phía tây của Iraq.


Không rõ lắm, nhưng nó chỉ ra được kim loại, đang di chuyển chậm chạp, rất xa trong nước Iraq, một đoàn xe không dài hơn hai, có thể là ba xe tải. Vẫn thế, chính là cái mà chiếc J-STAR có ở đó, cho nên người chỉ huy nhiệm vụ nói với một trong những chiếc AWAC đang bay vòng vòng ở đầu phía bắc biển Đỏ, cho các AWAC vị trí chính xác của đoàn xe nhỏ của Iraq.


Bên trong AWAC người chỉ huy nhiệm vụ ngồi đúng chỗ và nhìn nhanh tìm một nhân tố bay nào đó có thể đang tiện để cho đoàn xe một đòn choáng váng. Tất cả các đơn vị sa mạc phía tây đều đang hướng đến việc tìm các tên lửa Scud vào lúc đó, ngoài sự chú ý được đưa ra cho hai căn cứ không quân khổng lồ của Iraq gọi là H2 và H3 đang được định vị trong những sa mạc đó. Chiếc J-STAR nhẽ ra đã gọi một máy phóng Scud di động, ngay cả dù điều đó có thể là bất thường giữa thanh thiên bạch nhật như thế này.


AWACS cuối cùng cũng tìm ra một toán hai chiếc Eagle chiến đấu F-15E đang từ đường Scud Bắc đến phía nam này.


Don Walker đang lái về phía nam ở độ cao 20 nghìn fít sau một công vụ đến vùng ngoại ô Al Quam, nơi anh và người bay cùng, Randy Roberts, đã vừa tiêu diệt xong một căn cứ tên lửa hỗn hợp bảo vệ cho một trong số những nhà máy sản xuất khí đã được đánh dấu làm mục tiêu cho lần huỷ diệt sau đó.


Walker cầm máy nói và kiểm tra nhiên liệu. Đã xuống thấp rồi. Tệ hơn nữa, với những quả bom có laser hướng lối đã thả. những phần dưới máy bay anh chỉ còn lại hai Sidewinder và hai Sparrow.


Nhưng đó là các tên lửa không đối không trong trường hợp rơi đúng vào các máy bay tiêm kích Iraq. Ở nơi nào đó phía nam biên giới chiếc máy bay tiếp nhiên liệu của anh đang kiên nhẫn chờ đợi, và anh có thể cần từng giọt một để có thể về được tới Al Kharz. Nhưng đoàn xe chỉ là 50 dặm cách đó. Ngay cả nếu anh không có gì, thì cũng chẳng hại gì nếu đến đấy xem sao.


Người cùng bay với anh đã nghe được tất cả, và hai chiếc Eagle lăn vào trong một cái đường hầm bên phải mình. Từ độ cao 8000 fít, anh có thể nhìn thấy nguồn của tiếng động hiện ra trên màn hình chiếc J-STAR. Đó không phải là một máy phóng Scud, mà là hai xe tải và hai BRDM-2, những xe có gắn vũ khí nhẹ do Liên Xô làm đang lăn bánh, nhưng không phải xe tải.Từ chỗ của mình, anh có thể nhìn thấy nhiều hơn rất nhiều là chiếc J-STAR. Ở dưới trong một wadi sâu ở dưới anh là một chiếc Land Rover chỏng chơ. Từ độ cao 5000 fít, anh có thể nhìn thấy 4 người SAS của Anh đang đứng quanh chiếc xe, những con kiến nhỏ bé trong bộ quần áo màu nâu của sa mạc.


Điều họ không trông thấy là bốn chiếc xe của Iraq đang tạo thành một gọng kìm xung quanh, cũng không thể thấy những tên lính Iraq đang tràn xuống từ các thùng xe của hai xe tải để bao vây lấy cái hố.Don Walker đã gặp người của SAS Ở Oman. Anh biết họ hoạt động trong các sa mạc phía tây chống các máy phóng Scud; và nhiều người trong đội bay của anh đã từng có liên lạc radio với những cái giọng Anh nghe rất kỳ đó từ mặt đất khi các SAS đang hướng đến một mục tiêu họ không thể đến dược.


Cách 3000 fít, anh có thể thấy bốn người Anh đang nhìn lên vẻ tò mò. Thế là khi còn cách nửa dặm, là lính Iraq. Walker nhấn nút truyền tin của mình.


- Phía dưới, bắn lũ xe tải đi.


- Được rồi.


Dù anh chẳng còn bom hay hoả tiễn, đang còn ở bên cánh phải, ngay bên ngoài không khí, là một chiếc M-61 nòng Vulcan 20 ly, 6 barrel xoay có khả năng phóng ra tổng cộng 450 viên đạn cùng với tốc độ rất ấn tượng. Viên đạn cỡ nòng 20 ly là cỡ của một quả chuối nhỏ và sẽ nổ khi có tác động. Đối với những người đang ở trong xe tải hay chạy bên ngoài, chúng có thể phá hỏng bất kỳ cái gì.


Walker nhấn vào các nút Aim và Arm, và màn hình Head Up của anh - HUD - cho anh thấy hai chiếc xe hơi đang chạy thẳng qua màn hình của anh, rồi một cái chạy vụt qua, mà vị trí đã rơi đúng vào tầm.Chiếc BRMD đầu tiên dính một trăm viên đạn thần công và thổi tung đi. Hơi phổng mũi, anh lại hướng nòng về Plexiglas của HUD vào cần của chiếc xe thử hai. Anh nhìn kim chỉ nhiên liệu đang xuống. Rồi anh đứng lên và bắn, trườn ra và lăn cho đến khi sa mạc màu nâu hiện ra dưới anh. Giữ cho nó chạy tiếp, Walker lại cho chiếc Eagle nhào xuống lần nữa. Chân trời màu xanh và nâu lại trở lại vị trí quen thuộc, cùng với sa mạc màu nâu ở đáy và trời xanh ở trên cùng.


Cả hai BRDM đều bùng cháy, một xe tăng đã lật ra, chiếc còn lại khựng lại. Những khuôn mặt nhỏ xíu kinh hoàng chạy ra ẩn nấp vào các tảng đá.


Bên trong wadi bốn người của SAS đã bắt được thông báo. Họ chạy ra ngoài, nhào xuống dòng suối cạn và chạy khỏi điểm bị phục kích. Họ không biết rõ điều xảy ra, nhưng họ biết người đã vừa cứu sống họ.


Những chiếc Eagle bay đi, đảo cánh, và trườn về phía biên giới nơi có chiếc tiếp nhiên liệu đang chờ.


NCO chỉ huy SAS là một trung sĩ tên là Peter Stephenson. Anh ta giơ tay lên chỉ vào những chiếc máy bay chiến đấu vừa bay đi và nói.


- Không biết anh bạn là ai, nhưng tôi nợ anh đấy.


Và điều đó đã xảy ra, bà Maslowski có một chiếc Jeep của Suzuki chạy được, và dù bà chưa từng bao giờ lái xe bốn bánh, bà nhấn mạnh với Terry Martin là hãy mượn nó. Chuyến bay của anh đến London phải đến năm giờ chiều, và anh đã hoãn vì không biết phải mất bao nhiêu thời giờ. Anh nói với bà anh đang định quay lại khoảng hai giờ là muộn nhất.Tiến sĩ Maslowski phải quay về văn phòng của mình nhưng ông đã kịp tặng cho Martin một bản đồ để anh không thể bị lạc được.


Con đường đi đến thung lũng sông Mocho khiến anh phải ngược đường về Livermore, nơi anh tìm thấy con đường Mines chạy qua Tesla. Từng dặm một, những ngôi nhà cuối cùng của ngoại ô Livermore đã xa, và đường bắt đầu cao lên. Anh may mắn về mặt thời tiết. Mùa đông ở vùng đó chưa bao giờ lạnh, nhưng do gần biển nên có nhiều mây dày và những chỗ ngoặt gấp với sương mù. Ngày 27 tháng Giêng đó bầu trời xanh và trong sáng, không khí yên lành và lạnh.


Xuyên qua vùng gió anh có thể nhìn thấy chỏm băng của núi Cedar ở xa đó. Sau khi rẽ mười dặm, anh rời đường Mines và rẽ vào một đường bẩn, cho đến bên một cái đồi dốc. Ở dưới trong thung lũng mãi tít dưới, sông Mocho ánh lên trong mặt trời và rơi xuống giữa những tảng đá của mình. Bãi ỏ ở cả hai bên bờ hoà lẫn nhiều thứ ở phía trên, một đôi cái đang chống lại màu xanh, và con đường chạy dọc theo lề của dãy núi Cedar vào trong vùng hoang dã.


Anh đi qua một ngôi nhà trang trại màu xanh đơn độc, nhưng Lomax đã bảo anh đi đến cuối đường. Sau 3 dặm nữa anh tìm thấy túp lều, trơ trọi với một ống khói đá và một làn khói nhẹ đang toả lên trời xanh.


Anh dừng xe trong sân và đi ra. Từ một góc, một con bò Jersey đơn độc dò xét anh với đôi mắt ẩm ướt. Những âm thanh có tiết tấu đến từ đầu kia của túp lều, thế là anh bèn đi quanh để gặp được bố Lomax trong một góc tối nơi ở dưới thung lũng và dòng sông đã xa xôi.


Ông hẳn đã phải 75 tuổi, nhưng dù mối lo ngại của Sandy, ông trông thật phong độ với chòm râu rậm như một thứ trò tiêu khiển. Cao khoảng 6 fít hơn, trong bộ đồ jean nhàu nát và một chiếc áo phẳng, nhà khoa học già nua có vẻ chưa già lắm.


Mái tóc bạc sương phủ lên vai, và một chòm râu màu ngà voi phủ xuống. Những mảng lông còn trắng hơn hiện ra sau làn áo, và ông trông như không hề cảm thấy lạnh, trong khi Terry Martin thấy thật may vì ông mời anh một cốc rượu.


- Thấy khi nào? Nghe là anh sắp đến. Lomax nói, và chặt khúc củi cuối cùng chỉ với một nhát chặt. Rồi ông đặt rìu xuống và đi đến người khách. Họ bắt tay nhau, Lomax chỉ một khúc gỗ gần đó và tự mình cùng ngồi lên một cái.


- Tiến sĩ Martin phải không nhỉ?


- Vâng.


- Từ Anh?


- Vâng.


Lomax với lên túi trên, lôi ra một nắm thuốc lá và một tờ giấy và bắt đầu cuộn một điếu thuốc lá.


- Không đúng đắn về mặt chính trị, anh nghĩ thế à?


Lomax hỏi.


- Không, tôi không nghĩ thế.


Lomax nhăn nhó với vẻ đồng ý bề ngoài.


- Một tiến sĩ chuẩn mực về chính trị. Luôn muốn ngăn tôi không hút thuốc.


Martin để ý ông ta dùng thì quá khứ.


- Tôi cho là anh đã bỏ ông ta?


- Không đâu, ông ấy chứ. Chết tuần trước. 56 tuổi. Stress.


Thế điều gì đưa ông lên đây vậy?


Martin chìa chiếc cặp tài liệu ra.


- Tôi phải xin thứ lỗi vì chẳng ra sao. Có thể chỉ lãng phí thời gian của ông và của tôi mà thôi. Tôi chỉ tự hỏi liệu ông có thể nhìn một cái không.


Lomax cầm bức ảnh rõ nhất và nhìn chằm chằm vào đó


- Anh đến từ Anh thật chứ?


- Vâng.


- Anh đi xa thật để đến đưa cho tôi cái này.


- Ông có nhận ra không?


- Phải thế thôi. Thì đã làm việc ở đó suốt 5 năm trong đời tôi mà.


Miệng Martin trở nên tròn xoe.


- Ông thực đã ở đó à?


- Sông ở đó 5 năm đấy.


- Ở Tarmiya?


- Cái nơi quái gì thế. Đây là Oak Ridge.


Martin nuốt khan nhiều lần.


- Tiến sĩ Lomax, bức ảnh này do Hải quân Mỹ chụp được cách đây sáu ngày khi bay qua một nhà máy bị đánh bom ở Iraq đấy


Lomax liếc nhìn, đôi mắt xanh sáng dưới đôi kính trắng, rồi lại nhìn bức ảnh.


- Mẹ nó chứ, cuối cùng ông nói. Tôi đã báo trước lũ con hoang rồi mà. Ba năm trước. Đã viết một bài cảnh báo đó là một kiểu công nghệ của Thế giới Thứ ba thích sử dụng.


- Thế là thế nào?


- À, tôi đoán là họ đã nguỵ trang.


- Ai cơ?


- Anh cũng biết rồi đấy, những cái đầu đất.


- Những cái đĩa này - Frisbee trong nhà máy - ông có biết chúng ở đâu không?


- Dĩ nhiên, Calutron. Đó là một phiên bản của Oak Ridge cũ kỹ.


- Calu... - cái gì cơ?


Lomax lại trợn mắt nhìn.


- Anh không phải tiến sĩ khoa học à? Không phải nhà vật lý à?


- Không. Chuyên ngành của tôi là Arập.


Lomax lại nhăn mặt, như thể không phải nhà vật lý thì quả là một gánh nặng cho một con người để sống hết một cuộc đời


- Calutron. Cyclotron của California. Calutron, nói ngắn gọn.


- Thế chúng dùng làm gì?


- EMIS. Phản ứng phân hạch. Trong ngôn ngữ của anh, chúng tinh hoá uranium-238 để lọc những quả bom uranium- 235. Anh nói nó ở Iraq à?


- Phải. Nó đã bị vô tình đánh bom trúng một tuần trước.


Bức ảnh này được chụp ngày sau đó. Không ai tỏ ra hiểu nó có ý nghĩa gì hết.


Lomax chằm chằm nhìn qua thung lũng, ngậm đầu bít chì, và thả một làn khói ra xa.


- Mẹ nó chứ, ông lại nói. Thưa ngài, tôi sống ở trên này vì tôi muốn thế. Xa mọi thứ khói và đi lại - đã đủ năm rồi đấy. Không TV, nhưng tôi có nghe đài. Có phải về một người tên là Saddam Hussein không? 


- Đúng đấy. Có thể nói về calutron cho tôi không?


Ông già nhả khỏi cái tẩu và lại nhìn chằm chằm, không chỉ qua thung lũng mà còn qua nhiều năm tháng.


- Năm 1943. Lâu rồi phải không? Gần 50 năm rồi. Trước khi anh sinh ra, trước phần lớn những người hôm nay. Một nhúm người chúng tôi thử sức để làm điều không thể. Chúng tôi còn trẻ, hăng hái, và tài ba, và không hề biết đó là không thể. Thế là chúng tôi đã bắt đầu làm. Có Fermi từ Italia, và Pontecorvo; Fuchs từ Đức, Nils Bom từ Đan Mạch, Nunn May từ Anh, và nhiều người khác. Và chúng tôi những người Mỹ: Urey và Oppie và Ernest. Tôi còn rất trẻ. Vừa mới 27 thôi. Phần lớn thời gian, chúng tôi cảm thấy theo cách của chúng tôi, làm những việc chưa từng bao giờ được thử, thử nghiệm những cái mà họ nói là không thể làm được. Chúng tôi có ngân sách mà hôm nay chẳng đủ để mua gì hết, và thế là chúng tôi làm ngày làm đêm và thử những lối tắt. Buộc phải - hạn cuối cùng đã rất gần cũng như tiền bạc. Và bằng cách nào đó chúng tôi đã làm được điều đó, trong ba năm. Chúng tôi đã mở được những mật mã và làm được bom. Little Boy và Fat Man. Rồi Không lực ném bom họ ở Hiroshima và Nagasaki, và thế giới nói chúng tôi lẽ ra không nên làm điều đó. Điều khó xử là, nếu chúng tôi không làm, ai đó cũng sẽ làm. Nước Đức của quân Nazi, hoặc nước Nga của Stalin...


- Thế còn calutron... Martin thử gợi ý.


- Phải. Anh đã nghe nói về Dự án Manhattan chứ?


- Dĩ nhiên rồi.


- Tốt, chúng tôi có những thiên tài ở Manhattan, đặc biệt là hai người. Robert J.Oppenheimer và Ernest O. Lawrence. Đã nghe về họ chưa?


- Rồi.

Chương trước | Chương sau

↑↑
Nắng giọt

Nắng giọt

Nắng thèm được như thế, Nắng thèm cái cảm giác được thả mình trong cái thế giới

24-06-2016
Tri kỷ

Tri kỷ

Thứ đáng giá đến đâu cũng không đáng giá bằng tri kỷ. *** Ngày xưa có một phú

23-06-2016
Nô Lệ Của Vợ

Nô Lệ Của Vợ

Nô Lệ Của Vợ là một tiểu thuyết ngôn tình khá hay của tác giả Kim Cát - tác giả

23-07-2016 10 chương
Thơm như mùi...tre ngâm

Thơm như mùi...tre ngâm

(khotruyenhay.gq) “Mẹ ơi! Con yêu mẹ lắm nhưng trái tim con đã theo Tuấn mất rồi. Cuộc

29-06-2016
Nhện và gián

Nhện và gián

Có con nhện và con gián cùng sống trong một ngôi nhà. Một hôm nhện bực bội bảo: –

24-06-2016

Old school Swatch Watches