Cả CIA và SIS đều rất khẩn trương. Dù không lộ liễu, cuối tháng Mười đã xuất hiện rất nhiều nhân viên CIA tại Riyadh. Trước đó, sự có mặt của CIA đã gây bất hoà với cơ quan chỉ huy quân sự cách đó một dặm, trong những căn phòng hoạch định kế hoạch bên dưới Bộ Quốc phòng Xêut. Tâm trạng, ít nhất của các vị tướng không quân, là bằng mọi cách, thông qua việc sử dụng thành thạo ma trận lằng nhằng những trò kỹ thuật ở trong tầm kiểm soát của mình, tìm hiểu về phòng thủ và chuẩn bị của Iraq.
Và đó là một ma trận đáng ngạc nhiên. Ngoài những vệ tinh trên không cung cấp liên tục nguồn ảnh về mảnh đất của Saddam Hussein; ngoài Rạng Đông và U-2 làm cùng việc đó nhưng với khoảng cách gần hơn, còn có những bộ máy khác còn có mức độ phức tạp lớn hơn nhiều dành cho việc cung cấp những thông tin quan trọng.Một mạng vệ tinh khác, ở tầng bình lưu, đi vòng quanh Trung Đông, có nhiệm vụ nghe ngóng người Iraq nói gì, và những vệ tinh đó bắt được từng lời một nói trong một đường dây mở. Nó có thể không bắt được những cuộc họp bàn kế hoạch được thực hiện trên độ cao 45.000 dặm của những cái dây siêu dẫn.
Với các máy bay, chỉ huy là Hệ thống Cảnh báo bay và Hệ thống Kiểm soát, được biết dưới cái tên AWACS. Đó là những chiếc Boeing 707, mang theo một chiếc rada vòm khổng lồ trên lưng. Quay những vòng chậm rãi trên bờ bắc của Vịnh, luôn chuyển động hai tư giờ mỗi ngày, AWACS có thể thông báo cho Riyadh trong vài giây mọi chuyển động không trung phía trên Iraq. Hiếm khi một máy bay Iraq có thể di chuyển hay đi làm nhiệm vụ bay lên mà Riyadh lại không biết được số hiệu, hình dáng, tốc độ, và độ cao của nó.
Chỗ dựa của AWACS là một Boeing 707 khác, E8-A, được biết dưới cái tên J-STAR, theo dõi các chuyển động trên mặt đất trong khi AWACS kiểm soát những chuyển động trên không trung. Với cái rađa Norden lớn của mình nó quét phía dưới và các bên, để có thể bao trùm khắp Iraq mà không cần xâm nhập không phận lraq, chiếc J-STAR có thể nghe thấy tiếng mọi mẩu kim loại bắt đầu chuyển động.Sự phối hợp của những máy móc đó và nhiều điều kỳ diệu kỹ thuật khác mà Washington đã tiêu hàng tỷ và hàng tỷ đôla đã thuyết phục các vị tướng lĩnh rằng nếu có gì được nói ra, họ có thể nghe thấy, nếu có gì chuyển động, họ có thể nhìn thấy nó, và nếu họ biết rõ như vậy rồi, họ có thể tiêu diệt nó khi cần thiết.
bạn đang xem “Những bí ẩn của sa mạc - Frederik Forsythe” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Hơn nữa, họ có thể thấy được mọi thứ dù trời mưa hay sương mù, dù là đêm hay ngày. Không bao giờ kẻ thù có thể trốn dưới một cái hầm hay trong rừng rậm mà thoát được khỏi sự dò xét.Những con mắt trên trời cao có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ đó. Các sĩ quan tình báo từ Langley rất đa nghi, và điều đó thấy rất rõ. Cánh dân sự hay nghi ngờ. Đối mặt với cái đó cánh quân sự trở nên điên tiết. Nó có một công việc khó nhọc để làm, nó tiếp tục làm, cần gì đến những cái khác.
Bên phía người Anh tình hình lại khác hẳn. Chiến dịch SIS trên sân khấu vùng Vịnh không hề giống với CIA, nhưng nó còn là một chiến dịch lớn hơn nhiều theo các tiêu chuẩn của Nhà Thế kỷ. và theo cung cách của Nhà Thế kỷ thì nó là khía cạnh thấp kém hơn và bí mật hơn.Hơn thế nữa, người Anh đã được chỉ định chỉ huy tất cả các lực lượng Anh ở vùng Vịnh, và là người đứng bên cạnh tướng Schwarzkopf, một người lính không bình thường của hoàn cảnh bất thường.
Norman Schwarzkopf là một người đàn ông to lớn, quả quyết với năng lực quân sự to lớn và là một người lính rất có chất lính. Được biết đến dưới cái tên Norman Bão táp hay "Con Gấu", tâm trạng ông có thể chuyển từ rất tốt bụng đến bùng nổ tức giận, luôn luôn thất thường, đức tính mà các nhân viên của ông có thể nhận ra khi vị tướng sắp đi thực địa. Đối tác người Anh của ông không thể nào khác hơn được thế.Thiếu tướng Sir Peterr de le Billière, người đã tới vào đầu tháng Mười để chỉ huy người Anh ở đây là một người gầy gò xương xẩu, cương nghị với thái độ thờ ơ với cách nói năng ngắc ngứ. Người Mỹ to lớn hướng ngoại và người Anh mảnh khảnh hướng nội làm thành một cặp thật cọc cạch, những người chỉ nhường bước bởi vì người này đã hiểu người kia quá rõ để nhận ra là chẳng việc gì phải đối đầu với nhau hết cả.
Ngài Peter, được các đội quân biết đến như là P.B, là người lính có nhiều huân chương nhất trong Quân đội Anh, một vấn đề mà ông không bao giờ nói đến dù trong bất kỳ trường hợp nào. Chỉ những ai đã theo ông trong nhiều chiến dịch mới đôi khi dám thì thầm sau những vại bia về sự lạnh lùng dưới làn đạn, đức tính đã làm "mọc lên" trên áo ông nhiều huân chương lấp lánh đến thế. Ông cũng từng là sĩ quan chỉ huy của SAS, một lính bộ binh, điều khiến ông có những hiểu biết hữu dụng nhất về vùng Vịnh, về tiếng Arập, và các chiến dịch giả trang.
Bởi vì vị chỉ huy người Anh đã làm việc trước đó với SIS, đội của Nhà Thế kỷ tìm thấy ở ông một cái tai quen thuộc hơn để nghe những lời của họ hơn là với nhóm CIA. SAS đã có một sự có mặt tốt ở sân khấu vùng Vịnh, nhất là trong trại kín của họ ở góc của một căn cứ quân sự lớn hơn nằm bên ngoài Riyadh. Với tư cách là chỉ huy cũ của những người đó, tướng P.B cho rằng những tài năng đáng chú ý của họ không thể nào để bị bỏ phí trong những công việc ngày ngày buồn chán mà bộ binh hoặc lính đánh dù phải làm. Những người đó là các chuyên gia trong việc xâm nhập sâu và bắt con tin.
Ngồi trong ngôi biệt thự ngoài Riyadh trong tuần cuối tháng Mười, đội CIA và SIS đang bàn luận về một chiến dịch rất có trong phạm vi hoạt động của SAS. Chiến dịch là tung chỉ huy địa phương của SAS, và ông ta đi làm việc hoạch định.Cả buổi chiều của ngày thứ nhất của Mike Martin ở ngôi biệt thự được dành để giải thích về sự phát hiện của Liên quân Anh-Mỹ về điệp viên Jericho tại Baghdad. Họ nói với anh rằng anh vẫn có quyền từ chối và trở lại trung đoàn của mình. Anh suy nghĩ trong suốt buổi tối. Rồi anh nới với các sĩ quan thường trực của CIA-SIS:
- Tôi sẽ vào đó. Nhưng tôi có những điều kiện, và tôi muốn chúng được thực hiện.
Vấn đề chủ yếu, như tất cả đều biết là câu chuyện giả danh của anh. Đó không phải là một nhiệm vụ nhanh chóng vào rồi ra ngay, phụ thuộc vào tốc độ và sự tinh quái của mạng lưới phản gián. Cũng không phải anh tính đến chuyện hỗ trợ bên ngoài và bảo vệ như đã từng có ở Kuwait. Cũng không phải anh lang thang trong sa mạc bên ngoài Baghdad như một thổ dân bộ lạc Bedouin lang thang. Thời gian này Iraq đã trở thành một trại lính khổng lồ. Thậm chí các vùng đất có trên bản đồ dường như đã đổi khác và trở nên trống trơn, nơi các đội tuần tra đi suốt ngày. Tại Baghdad, quân đội và những đội AMAM có mặt ở khắp mọi nơi, Cảnh sát Quân sự tìm kiếm những kẻ đơn độc và AMAM thì tìm mọi người khả nghi.
Nỗi sợ hãi mà AMAM gây ra được mọi người trong ngôi biệt thự chia sẻ. Các báo cáo từ các doanh nhân và nhà báo, và từ các nhà ngoại giao Anh và Mỹ trước khi họ bị rút đi, mở rộng phân tích sự có mặt khắp nơi của cảnh sát mật, những người luôn khiến công dân Iraq sợ hãi và run rẩy.Nếu Martin vào trong đó, anh có thể sẽ phải ở lại. Điều khiển một điệp viên như Jericho hẳn sẽ không hề dễ dàng với anh. Thứ nhất, người đàn ông phải sẵn sàng tìm dấu những hộp thư chết và được thông báo ông ta đã quay trở lại nhiệm vụ.
Các hộp thư có thể đã bị theo dõi. Jericho có thể đã bị bắt và bị buộc phải khai hết ra.Hơn thế nữa, Martin cũng phải thiết lập một chỗ để sống, một căn cứ nơi anh có thể gửi và nhận các thông tin. Anh sẽ phải đi vòng vòng khắp thành phố, theo dõi các hòm thư nếu nguồn tin bên trong của Jericho được thu hẹp lại, mặc dù giờ đây nó có thể được dành cho những vấn đề khác nữa.
Cuối cùng, và tệ nhất trong mọi chuyện, có thể không có vỏ bọc ngoại giao nào hết, không hề có lá chắn bảo vệ để giúp anh thoát khỏi những cơn khủng khiếp rằng có thể bị bắt và bị xử lý Với một con người như thế, các phòng thẩm vấn của Abu Khatib có thể đã sẵn sàng.
- Anh - e hèm - đang nghĩ gì vậy? Paxman hỏi khi Martin đưa ra đề nghị của mình.
- Nếu tôi không thể trở thành một nhà ngoại giao, tôi muốn là một tuỳ viên cho một nhà ngoại giao.
- Không dễ dâu, anh bạn ạ. Các Đại sứ quán đều bị theo dõi.
- Tôi không nói là Đại sứ quán. Tôi nói nhà của nhà ngoại giao.
- Một dạng như tài xế? Barber hỏi.
- Không. Quá lộ liễu. Người lái xe phải luôn ngồi sau tay lái Anh ta lái xe chở nhà ngoại giao đi khắp nơi và trông giống như nhà ngoại giao.
- Thế gì?
- Trừ phi mọi việc thay đổi hoàn toàn, rất nhiều nhà ngoại giao cao cấp sống bên ngoài toà nhà Đại sứ quán, và nếu chức đủ cao, thì họ vẫn còn có một biệt thự có vườn với tường bao. Ngày xưa những ngôi nhà đó có một người làm vườn.
- Một người làm vườn? Berber hỏi lại. Nhưng đó là một công việc tay chân. Anh sẽ bị tóm cổ và bị đưa vào quân đội.
- Không đâu. Người làm vườn làm mọi việc ở ngay trong nhà. Anh ta chăm sóc vườn tược, đi mua bán trên xe đạp, mua cá ở chợ cá, hoa quả và rau. bánh và dầu rán. Anh ta sống trong một căn lều ở cuối vườn.
- Thế điểm mấu chốt là ở đâu, Mike? Paxman hỏi.
- Mấu chốt là ở chỗ, anh ta vô hình. Anh ta tầm thường đến vậy, không ai để ý đến anh ta cả. Nếu anh ta bị bắt, tấm thẻ căn cước của anh ta sẽ hợp lệ và anh ta sẽ cầm một lá thư đại sứ quán, bằng tiếng Arập, giải thích rằng anh ta làm việc cho nhà ngoại giao và được miễn quân dịch, và có quyền xin cho anh ta đi làm việc. Trừ khi anh ta làm việc gì sai trái, không thì chẳng người cảnh sát nào gây rắc rối với anh ta và lại còn không muốn làm chống lại đại sứ quán nữa chứ.
Hai nhân viên tình báo nghĩ ngợi.
- Có thể được đấy, Barber đồng ý. Tầm thường, vô hình. Anh nghĩ thế nào, Simon?
- Tốt. Paxman nói. nhà ngoại giao có thể làm được điều này.
- Chỉ là một phần thôi, Martin nói. ông ta có thể cần phải được nhận một lệnh đơn giản từ chính phủ của mình để nhận một người lạ vào làm việc. Anh ta nghi ngờ là chuyện riêng của anh ta. Anh ta sẽ giữ chặt mồm miệng nếu anh ta muốn giữ được công việc của mình và nghề ngỗng. Nghĩa là lời đề nghị phải đến từ cấp khá cao.
- Đại sứ quán Anh bị thôi rồi, Paxman nói. Người Iraq có thể làm mọi cách để làm hại người chúng ta.
- Chúng tôi cũng thế thôi. Barber nói. Anh có nghĩ đến ai không, Mike?
Khi Martin nói với họ: họ nhìn anh chằm chằm như không tin.
- Anh không nghiêm túc rồi. người Mỹ nói.
- Tôi nghiêm túc, Martin bình thản nói.
- Thế quái nào đấy, Martin, một lời yêu cầu như thế có thể toi mất, trời đất, ngài thủ tướng.
- Và tổng thống nữa. Harber nói.
- Nào, chúng ta giờ đây đã là cánh bạn bè rồi, tại sao không chứ? Ý tôi là, nếu sản phẩm của Jericho có thể cứu được tính mạng của Liên quân. thì một cú điện thoại chẳng lẽ lại là quá đáng ư?
Chíp Barber liếc nhìn đồng hồ. Giờ Washington sớm hơn bảy giờ so với ở vùng Vịnh. Langley có thể đang kết thúc bữa trưa của mình. London chỉ sớm hơn có hai giờ, nhưng các sĩ quan cấp cao có thể đã ngồi vào bàn làm việc rồi.
Barber chạy thẳng về Đại sứ quán Mỹ và gửi một bức tin khẩn bằng mật mã về phó giám đốc, Bill Stewart, người, khi đọc điều đó mang đến cho giám đốc, William Webster. Đến lượt ông này gọi điện sang Nhà Trắng và xin một cuộc gặp với tổng thống.Simon Paxman gặp may. Cú phôn mã hoá của anh ta đã tóm được Steve Laing đang ngồi ở bàn ở Nhà Thế ký, và sau khi nghe, người chỉ huy các Chiến dịch Trung Đông gọi Chỉ huy ở nhà riêng.
Ngài Colin suy nghĩ và gọi một cú điện thoại đến thư ký Chính phủ, ngài Robin Butler.Chỉ huy Cơ quan Tình báo mật, trong những trường hợp khẩn cấp, có thể yêu cầu và được chấp nhận một cuộc gặp cá nhân với thủ tướng, và Margaret Thatcher luôn dễ tính đối với những người điều hành các công vụ tình báo và các Lực lượng Đặc biệt. Bà đồng ý gặp Chỉ huy tại văn phòng riêng của mình tại số 10 phố Downing vào tám giờ sáng ngày hôm sau.
Bà, như vẫn luôn vậy, làm việc từ trước bình minh và đã dọn bàn trước khi Chỉ huy có mặt. Bà nghe lời đề nghị kỳ khôi với một cái nhăn trán khó hiểu, đòi giải thích nhiều lần, nghĩ ngợi, và sau đó, theo cách thông thường của bà, bà ghi nhớ ngay không chậm trễ.
- Tôi sẽ thoả thuận với tổng thống Bush ngay khi ông ấy muốn, và chúng ta sẽ xem có thể làm gì được. Thế cái, ùm, người đó - sẽ thực sự làm việc đó à?
- Đó là chủ đích của anh ta, thưa thủ tướng.
- Một trong số người của ông à, ngài Colin?
- Không, anh ta là thiếu tá của SAS.
Mắt bà sáng bừng.
- Một người đáng chú ý đấy.
- Tôi cũng tin vậy, thưa bà.
- Khi mọi chuyện xong, tôi cũng muốn gặp anh ta.
- Tôi chắc sẽ thu xếp được, thưa thủ tướng.
Khi Chỉ huy đã đi, nhân viên phố Downing thiết lập một cú điện thoại cho Nhà Trắng, ngay vào giữa đêm ở đó, và tạo một kết nối nóng vào tám giờ sáng ở Washington và một giờ chiều ở London. Bữa trưa của thủ tướng được lùi lại mười ba phút.
Tổng thống Bush, cũng giống người tiền nhiệm Ronald Reagan, luôn luôn thấy khó khăn trong việc từ chối thủ tướng Anh điều gì đó khi bà đã tấn công từ khắp mọi hướng.
- Tốt thôi, Margaret, tổng thống nói sau năm phút, tôi sẽ gọi điện.
- Anh ta có thể từ chối, bà Thatcher nhấn mạnh, và anh ta đã không làm thế. Dù sao đi nữa, chúng ta phải làm mọi chuyện để giúp anh ta.
- Đúng vậy, sẽ làm, tổng thống nói.
Hai vị lãnh đạo Chính phủ gọi điện trong một giờ cả hai, và câu trả lời từ người đàn ông bối rối ở đầu dây bên kia là đồng ý ông ta có thể gặp các đại diện của họ, gặp riêng, ngay khi họ tới
Tối đó Bill Stewart đi khỏi Washington, và Steve Laing bắt chuyến bay cuối cùng của ngày từ Heathrow.Nếu Mike Martin có ý tưởng nào đó về sự nhanh chóng của hoạt động của yêu cầu của anh dã được bắt đầu, thì anh cũng không để lộ chút nào hết cả. Anh trải qua ngày 26 và 27 tháng Mười nghỉ ngơi, ăn uống, và ngủ. Nhưng anh ngừng cạo râu, để mặc chòm râu đen tiếp tục dài ra. Những công việc theo yêu cầu của anh đang được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau.
Chỉ huy Trạm SIS ở Tel Aviv đã đến thăm tướng Kobi Dror với một lời yêu cầu cuối cùng. Chỉ huy Mossad nhìn chằm chằm tò mò người đàn ông người Anh.
- Anh thực sự sẽ làm cái đó chứ? ông ta hỏi.
- Tôi chỉ biết là tôi được lệnh là nhờ ông, Kobi ạ.
- Quỷ thật. Các ông biết anh ta sẽ bị bắt, có biết không hả?
- Ông có thể làm không hả. Kobi?
- Tất nhiên chúng tôi có thể làm được điều đó.
- Hai mươi tư giờ nhé?
Kobi Dror lại vào vai Fidder in the Roof.
- Với anh, anh chàng dở hơi, tay phải của tôi đây này. Nhưng xem này, lạ lùng chưa, anh đề xuất cái gì thế này?
Ông đứng dậy và đi ra sau bàn của mình, vòng một tay quanh vai người đàn ông người Anh.
- Anh cũng biết đấy, chúng tôi đã phá bỏ mất phân nửa quy tắc của chúng tôi rồi đấy, và chúng tôi gặp may. Thường thì, chúng tôi không bao giờ có người của mình đến thăm một hòm thư chết. Nó có thể là một cái bẫy. Với chúng tôi, hòm thư luôn là một chiều: từ katsa đến điệp viên. Với Jericho, chúng tôi bỏ quy tắc đó đi. Moncada lấy sản phẩm theo cách đó bởi vì không còn có cách nào khác nữa cả. Và anh ta đã gặp may - gặp may trong hai năm liền. Nhưng anh ta có vỏ bọc ngoại giao. Giờ thì các anh lại muốn... điều đó.
Ông cầm lên một bức ảnh nhỏ của một người đàn ông khuôn mặt trông như người A-rập với tóc đem sậm và xoăn, bức ảnh người Anh mới nhận được từ Riyadh, mang nó đến (từ nơi đó không có đường dây thương mại nào giữa hai thủ đô) bởi chiếc máy bay phản lực HS-125 riêng của tướng de la Billière. Chiếc 125 đang đỗ ở sân bay quân sự Sde Dov, nơi những dấu hiệu sống động của nó dã được chụp ảnh lại rất nhiều.Dror nhún vai.
- Thôi được. Sáng mai nhé. Hứa đấy.
Mossad có một số dịch vụ kỹ thuật tốt nhất trên thế giới Ngoài một máy điện toán trung tâm với dữ liệu khoảng hai triệu tên và số liệu, ngoài những dịch vụ tốt vào loại nhất trên thế giới, còn có tại căn cứ và dưới đất của đại bản doanh Mossad một loại những phòng nơi nhiệt độ được kiểm soát hết sức kỹ càng. Những phòng đó để chứa giấy tờ. Không phải chỉ là giấy tờ cũ - những giấy tờ rất đặc biệt. Những bản gốc của gần như mọi loại hộ chiếu trên thế giới nằm ở đây, cùng với vô vàn những giấy tờ căn cước khác, giấy phép lái xe, thẻ bảo hiểm xã hội, và đủ thứ linh tinh.
Rồi còn có những thẻ căn cước trống, để khống trên đó người viết có thể điền vào, sử dụng các bản gốc như là một hướng dẫn để tạo ra đồ giả với chất lượng tuyệt hảo. Các thẻ căn cước không chỉ có tính đặc biệt. Những giấy ngân hàng khó bắt chước có thể và được làm ra với số lượng lớn. dù là để giúp làm lụn bại đồng tiền một nước láng giềng thù địch, hay để cấp tiền cho các chiến dịch bí mật của Mossad. những cái mà cả thủ tướng lẫn Knesset đều không biết mà cũng không muốn biết.
CIA và SIS phải nhờ đến Mossad, đơn giản vì họ không thể làm nổi một tấm thẻ căn cước của một người lao động chân tay người Iraq 45 tuổi với một sự chắc chắn có thể qua được mọi kiểm soát trong nước Iraq.Thật may mắn, Sayeret Matkal, một nhóm trinh sát qua biên giới bí mật đến nỗi tên nó không thể được in lên thậm chí ở Israel, đã làm một chuyến đi vào Iraq hai năm trước để cấy một oter Arập có quan hệ ở mức độ này ở đó. Trong khi đi lại ở Iraq, các điệp viên đã bắt chợt hai người đang làm việc trên đồng ruộng, xử lý họ, và lấy thẻ căn cước của họ.
Như đã hứa. những người của Dror làm việc thâu đêm và đến bình minh thì đã làm được một tấm thẻ căn cước Iraq, bẩn thỉu đến mức chấp nhận được và trông nhầu nát như đã dùng từ lâu lắm, với cái tên Mahmoud Al-Khouri. 45 tuổi, từ một ngôi làng ở trên những quả đồi phía bắc Baghdad. làm việc ở thủ đô với nghề tay chân.Những người làm giả không biết Martin đã lấy tên của Al- Khouri, người từng kiểm tra tiếng Arập của anh trong một quán ăn Chelsea hồi đầu tháng Tám; họ cũng không thể biết rằng anh đã chọn ngôi làng từ đó người cha làm vườn của ông ta đã đến, ông già, trước đó rất lâu gần một cái cây ở Baghdad, đã nói cho đứa con người Anh của mình về nơi nó ra đời, về ngôi nhà thờ Hồi giáo và quán cà phê và những ruộng đồng trồng alfalfa và dưa hấu bao quanh. Và đó lại thêm một điểm nữa mà những người làm giả không hề hay biết.
Trong buổi sáng Kobi Dror đưa tấm thẻ căn cước cho người của SIS đóng ở Tel Aviv.
- Nó sẽ không làm hại anh ta đâu. Nhưng tôi nói nó, ông đập vào bức ảnh với một ngón tay béo trục, nó, cái tay Arập bất kham đó, sẽ phản bội các anh ngay lập tức hoặc sẽ bị bắt trong vòng một tuần.
Người của SIS chỉ có thể nhún vai. Thậm chí anh ta cũng không biết người đàn ông có trong bức ảnh giả hoàn toàn không phải là người Arập. Anh ta phải cần biết, thế là anh ta không được nói. Anh ta chỉ làm điều được ra lệnh - đưa chiếc thẻ lên máy bay HS-125, trên đó nó sẽ được chở quay về Riyadh.
Quần áo cũng đã chuẩn bị xong, chiếc dish-dash đơn giản của một người lao động Iraq, một cái keffiyeh cũ màu nâu, và đôi giày cổ lỗ to xù Một chiếc mũ lưỡi trai có vành, không thể biết anh làm gì, đã tạo ra một kiểu ăn mặc kỳ quái. Anh ta là một người Xêut đáng thương.Bên ngoài thành phố Riyadh, một căn cứ quân sự bí mật, nơi tập hợp các loại xe cộ đặc biệt đang được chuẩn bị. Chúng được mang đến trên một chiếc Hercules của RAF từ căn cứ chính của SAS xa hơn về phía bán đảo Arập ở Oman và được thả xuống và trang bị lại cho một chuyến đi dài và gian khổ.
Điều cốt yếu của cuộc thoả thuận về hai chiếc Land-Rover loại lớn là không cần trang bị vũ khí nhưng tốc độ cao và đi được xa. Mỗi xe có thể chở được những vật dụng thông thường cho bốn nhân viên SAS, và một cái có thể mang một khách. Chiếc còn lại có thể mang một chiếc xe máy to đùng cũ rích, cũng có bình xăng đi được rất lâu. Quân đội Mỹ cũng đã cho mượn sức mạnh của mình theo yêu cầu, lần này dưới dạng hai chiếc trực thăng Chinook to phản lực. Chúng chỉ được biết là luôn phải túc trực.
Mikhail Sergeivitch Gorbachev đang ngồi như thường lệ ở cái bàn của văn phòng làm việc cá nhân của mình ở tầng thứ bảy và là cao nhất của toà nhà Trung ương Đảng ở Novaya Ploshad, cùng hai người thư ký, khi máy điện thoại nội bộ reo để báo sự đến của hai sứ giả từ London và Washington. Trong hai mươi tư giờ ông đã rối tinh lên bởi những yêu cầu của cả tổng thống Mỹ và thủ tướng Anh mà ông nhận được một đặc phái viên cá nhân từ mỗi phía. Không phải là một chính trị gia, không phải một nhà ngoại giao - chỉ là một người đưa tin. Trong cái ngày này và ở tuổi tác đó, ông tự hỏi, thông điệp như thế nào mà lại không thể nói qua các kênh ngoại giao thông thường Họ có thể sử dụng một đường dây nóng có độ an toàn tuyệt đối không thể xâm nhập được, mặc dù cần đến các phiên dịch và kỹ thuật viên.
Ông bối rối và tò mò, và vì tò mò là một trong những đặc tính nổi bật nhất của ông, ông nóng lòng được gỡ mối tơ rối. Mười phút sau, hai người khách đã vào đến trong văn phòng riêng của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đỏ và Chủ tịch nước Liên Xô. Đó là một căn phòng dài, hẹp với một dãy cửa sổ dọc theo hai bên, nhìn sang Quáng trường Đỏ. Không có cửa sổ sau lưng chủ tịch, người ngồi quay lưng vào tường ở cuối một cái bàn họp dài.
Ngược hẳn với phong cách u buồn, nặng nề được những người tiền nhiệm mình ưa thích, Andropov và Chernenko, Gorbachev trẻ tuổi thích cách bài trí sáng sủa, thoáng mát. Cái bàn riêng và bàn làm việc được làm từ gỗ sáng, dọc theo là những cái ghế êm ái. Các cửa sổ được bảo vệ bằng những bức rèm thanh nhã.Khi hai người đi vào, ông vẫy tay bảo các thư ký đi ra. Ông nhổm lên khỏi bàn và đi ra đón.
- Xin chào, các quý ngài, ông nói bằng tiếng Nga. Trong số các ông có ai nói được bằng thứ tiếng của tôi không?
Một người, mà ông cho là người Anh, trả lời bằng tiếng Nga ngập ngừng. "Có lẽ phải cần phiên dịch, thưa ngài chủ tịch".
- Vitali, Gorbachev gọi với vào một trong những thư ký đã đi ra, bảo Yevgeny đến ngay đây.
Trong khi còn chưa nói năng gì được, ông mỉm cười và hoa chân múa tay cho các vị khách bảo ngồi xuống. Phiên dịch riêng của ông đi vào trong vài giây và ngồi về cùng phía ,ở cái bàn của chủ tịch.
- Thưa ngài, tên tôi là William Stewart. Tôi là phó giám đốc của Cơ quan Tình báo Trung ương ở Washington, người Mỹ nói.
Miệng Gorbachev mím lại và lông mày co lại.
Chương trước | Chương sau