The Soda Pop
Điệu Vales giã từ - Milan Kundera

Điệu Vales giã từ - Milan Kundera


Tác giả:
Đăng ngày: 15-07-2016
Số chương: 5
5 sao 5 / 5 ( 147 đánh giá )

Điệu Vales giã từ - Milan Kundera - Chương 3 - Ngày ba

↓↓

- Thế còn ông người Mỹ? Ông ấy nói gì về chuyện đó?

bạn đang xem “Điệu Vales giã từ - Milan Kundera” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


- Đó chính là điểm khó nhất. Ông ấy không có khả năng hiểu được khi người ta nói mập mờ. Chính vì thế tớ mới cần đến cậu, để cậu nghiên cứu ông ấy và nói cho tớ biết phải làm thế nào với ông ấy.


Skreta nhìn đồng hồ và nói Bertlef đang đợi họ.


- Nhưng chúng ta làm gì với Bob bây giờ? – Jakub hỏi.


- Sao cậu lại dẫn nó vào đây? – Skreta hỏi.


Jakub giải thích cho bạn anh đã cứu sống con chó thế nào, nhưng Skreta đang chìm đắm vào những suy nghĩ của mình nên chỉ nghe một cách lơ đãng.


Khi Jakub nói xong, anh nói:


- Bà chủ nhà trọ là một bệnh nhân của tớ . năm kia bà ấy đã đẻ một thằng bé đẹp tuyệt. Họ rất yêu quý Bob, ngày mai cậu phải mang nó trả lại cho họ. Trong khi chờ đợi, chúng ta sẽ cho nó một liều thuốc ngủ để nó để yên cho chúng ta.


Anh rút từ trong túi một tuýp thuốc, lấy ra một viên. Anh gọi con chó lại gẫn, vạch mồm nó ra và ném viên thuốc vào họng con chó.


- Một phút nữa nó sẽ ngủ rất ngon – anh nói và cùng Jakub ra khỏi phòng.


9.


Bertlef chào mừng hai người khách và Jakub nhìn quanh căn phòng. Anh tiến lại gần bức tranh vẽ một vị thánh râu rậm:


- Tôi nghe nói là ông có vẽ - anh nói, với Bertlef.


- Vâng – Bertlef trả lời – đó là thánh Lazare, ông thánh bảo mệnh của tôi .


- Tại sao ông lại vẽ ông ấy có vòng hào quang màu xanh? – Jakub tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi.


- Tôi rất vui vì anh hỏi tôi câu đó. thường thì người ta ngắm một bức tranh mà thậm chí không biết mình đang nhìn gì. Tôi vẽ vòng hào quang xanh chỉ đơn giản vì trên thực tế vòng hào quang màu xanh.


Jakub lại tỏ ra ngạc nhiên, Bertlef nói tiếp:


- Những người yêu kính Chúa bằng một tình yêu đặc biệt mạnh mẽ sẽ cảm thấy được phần thưởng một niềm vui thiêng liêng lan toả trong khắp con người mình và từ đó chiếu toả ra bên ngoài. Ánh sáng của niềm vui thần thánh đó dịu dàng, mềm mại và có màu bầu trời.


- Gượm đã – Jakub nói – Ông muốn nói vòng hào quang còn hơn là một biểu tượng?


- Chắc chắn rồi – Bertlef nói – Nhưng anh đừng nghĩ nó thường trực toả rạng trên đầu các vị thánh và các vị thánh dẫn đường cho thế giới như những ngọn đèn đường. Dĩ nhiên là không rồi. Chỉ vào một số thời điểm niềm vui bên trong mạnh mẽ đến mức trán họ phòng ra một ánh sáng màu xanh. Trong những thế kỷ đầu tiên sau khi Jesus chết đi, vào thời kỳ các thánh có rất nhiều và có nhiều người thân thiết với họ, không ai mảy mai nghi ngờ về màu vòng hào quang của họ, và trên tất cả các bức tranh, tranh tường thời đó anh sẽ thấy vòng hào quang có màu xanh. Từ thế kỷ thứ năm trở đi các hoạ sĩ mới dần bắt đầu vẽ các màu khác nhau, chẳng hạn màu da cam và màu vàng. Sau này, trong hội hoạ gô tích, chỉ còn lại các vòng hào quang màu vàng thôi. Trông đẹp hơn và biểu hiện được rõ hơn sức mạnh trần thế và vinh quang của Nhà thờ. Nhưng vòng hào quang đó không còn giống với vòng hào quang thật sự, cũng như Nhà thờ không còn giống với Thiên Chúa giáo nguyên thuỷ nữa.


- Tôi không biết điều đó đấy – Jakub nói và Bertlef bước về phía tủ rượu. Ông trao đổi một lúc với hai người khách để biết nên lấy chai nào. Khi rót xong cognac vào ba chiếc ly, ông quay về phía bác sĩ:


- Anh đừng quên, tôi xin anh, người cha bất hạnh này. Tôi muốn điều đó lắm đấy!


Skreta đảm bảo với Bertlef rằng tất cả sẽ diễn ra tốt đẹp, Jakub không biết họ đang nói về chuyện gì. Khi họ nói với anh (chúng ta hãy tán thưởng sự kín đáo thanh lịch của hai người đó, họ không nói ra một cái tên nào, ngay cả trước mặt Jakub), anh thể hiện lòng thương xót lớn lao với ông bố ít may mắn:


- Ai trong số chúng ta chưa phải trải qua sự nhọc nhằn đó! Đó là một trong những thử thách lớn nhất của cuộc đời. Những ai khuất phục và trở thành bố dù không muốn suốt đời sẽ bị kết tội bởi thất bại của mình. Họ trở nên độc ác như tất cả những ai thua cuộc và muốn tất cả những người khác chịu chung số phận.


- Bạn ơi! – Bertlef kêu lên – Anh đang nói trước mặt một người cha sung sướng! Nếu anh còn ở lại đây một hai ngày nữa, anh sẽ nhìn thấy con trai tôi, một thằng bé đẹp tuyệt, và anh sẽ rút lại những gì anh vừa nói.


- Tôi sẽ không rút lại gì hết – Jakub nói – vì ông đã không trở thành bố dù không muốn!


- Dĩ nhiên là không rồi. Tôi đã thành bố theo đúng mong muốn của mình và nhờ vào ân huệ của bác sĩ Skreta.


Bác sĩ đồng ý với vẻ thoả mãn và tuyên bố anh cũng có một ý kiến về tình cha con giống với Jakub, mà tình trạng tuyệt vời của Suzy chính là bằng chứng:


- Điều duy nhất – anh nói thêm – khiến tôi hơi bối rối về chuyện sinh đẻ, là lựa chọn có phần không có lý lắm của các ông bố bà mẹ. Thật khó tin là các cá nhân xấu xí lại có thể quyết định sinh đẻ. Chắc họ tưởng gánh nặng của cái xấu sẽ nhẹ nhàng hơn nếu họ được chia sẻ với con cháu mình.


Bertlef coi quan điểm của bác sĩ Skreta là phân biệt chủng tộc về mặt mỹ học:


- Đừng quên là, không chỉ Socrate là một người xấu xí, mà rất nhiều cô tình nhân lừng danh cũng không hề nổi bật vì vẻ bên ngoài đâu nhé. Sự phân biệt chủng tộc về mặt mỹ học gần như luôn là dấu hiệu của thiếu kinh nghiệm. Những ai chưa đi sâu vào thế giới khoái lạc tình yêu chỉ có thể phán xét phụ nữ thông qua những gì mà họ nhìn thấy. Nhưng những ai thực sự hiểu biết sẽ biết là con mắt chỉ có thể khơi gợi một mảnh xấu xí của những gì phụ nữ có thể dâng hiến cho chúng ta. Khi Chúa sáng tạo con người phải làm tình và sinh sôi, thưa bác sĩ, Người đã nghĩ đến những người xấu ngang với những người đẹp. Tôi lại còn chắc chắn là tiêu chí thẩm mỹ không đến từ Chúa, mà từ Quỷ. Trên thiên đường, không ai phân biệt xấu đẹp nữa đâu.


Jakub tiếp lời và khẳng định những mục đích thẩm mỹ không đóng vai trò gì trong sự kinh tởm của anh đối với sự sinh đẻ.


- Nhưng tôi có thể dẫn ra mười lý do khác để không nên làm bố.


- Nói đi, tôi rất tò mò đấy – Bertlef nói.


- Thứ nhất, tôi không thích tình mẹ con – Jakub nói và dừng lại, vẻ nghĩ ngợi – Thời đại hiện đại đã vén màn bí ẩn mọi huyền thoại. Từ lâu nay tuổi thơ đã không còn là tuổi ngây thơ. Freud đã phát hiện tính dục ở trẻ con và đã nói với chúng ta tất cả về Œdipe. Chỉ Jocaste là chưa hề bị động đến, không ai dám giật khăn bịt mặt của bà. Tình mẹ con là cấm kỵ cuối cùng và lớn nhất, cái tạo ra sự xấu xa nghiêm trọng nhất. không có sợi dây liên hệ nào chặt chẽ hơn mối liên kết gắn liền người mẹ với đứa con. Mối liên hệ đó mãi mãi làm biến dạng tâm hồn đứa trẻ và chuẩn bị cho người mẹ, khi đứa trẻ lớn lên, những đau khổ lớn nhất của tình yêu. Tôi nói tình mẹ con là một sự xấu xa và tôi từ chối đóng góp vào đó.


- Tiếp theo – Bertlef nói.


- Một lý do khác khiến tôi không muốn làm tăng số lượng các bà mẹ - Jakub nói, hơi có chút bối rối – là tôi quá yêu cơ thể phụ nữ và không thể nghĩ mà không thấy kinh tởm rằng bộ ngực của người tôi yêu sẽ trở thành một cái túi đựng sữa.


- Tiếp theo – Bertlef nói.


- Bác sĩ chắc là sẽ khẳng định với chúng ta là các bác sĩ và y tá điều tri .cho những phụ nữ nằm viện sau khi chửa đẻ nặng nề hơn là cho các sản phụ và chứng kiến họ có chút khinh bỉ, mà quên mất là đến lượt mình, họ chắc chắn cũng sẽ phải chịu, ít nhất một lần trong đời, một sự chữa trị tương tự. Nhưng ở họ lại có một phản chiếu mạnh hơn mọi suy nghĩ, bởi vì sự thành kính dành cho sinh đẻ là một mệnh lệnh của tự nhiên. Chính vì lẽ đó sẽ là vô ích để tìm kiếm một lý luận duy lý dù nhỏ nhất trong việc tuyên truyền sinh đẻ. Phải chăng giọng nói của Jesus đang vang lên, trong luân lý sinh đẻ của Nhà thờ, hay các anh nghe thấy giọng của Marx trong tuyên truyền của nhà nước cộng sản về sinh đẻ? Được dẫn lối bởi ham muốn duy nhất là duy trì giống nòi, nhân loại cuối cùng sẽ ngạt thở trên mảnh đất tí hon của mình. Nhưng tuyên truyền cho sinh đẻ vẫn tiếp tục chạy và công chúng đổ nước mắt xúc động khi nhìn thấy hình ảnh một người mẹ cho con bú hoặc khi một đứa bé con nhăn mặt. Tôi kinh tởm hình ảnh đó. Khi nghĩ là mình có thể, cùng với hàng triệu người nhiệt thành khác, cúi xuống một cái nôi với một nụ cười đần độn, tôi thấy lạnh hết sống lưng.


- Tiếp theo – Bertlef nói.


- Và rõ ràng tôi cũng phải tự hỏi tôi muốn gửi đứa con của mình vào thế giới nào. Trường học sẽ nhanh chóng tước nó khỏi tay tôi và nhồi sọ nó những điều vớ vẩn mà chính bản thân tôi cả đời đã phải đấu tranh để chống lại. Liệu tôi có phải nhìn con trai mình trở thành một kẻ đần độn phò chính thống ngay trước mắt tôi? Hoặc, liệu tôi có phải nhồi cho nó những ý tưởng của chính tôi và nhìn thấy nó đau đớn bởi vì nó bị lôi kéo vào những xung đột giống như tôi?


- Tiếp theo – Bertlef nói.


- Và rõ ràng tôi cũng phải nghĩ cho tôi. Tại đất nước này, trẻ con trả nợ cho sự bất tuân lệnh của bố mẹ chúng và bố mẹ chúng cho sự bất tuân của con cái. Bao nhiêu người trẻ tuổi bị cấm học hành vì bố mẹ họ rơi vào cảnh thất sủng! Và bao nhiêu bố mẹ đã chấp nhận hoàn toàn sự hèn nhát với mục đích duy nhất là không làm hại đến con cái họ? Ở đây, ai muốn giữ được ít nhất một tự do nào đó ình thì không được phép có con – Jakub nói, và im lặng.


- Anh còn phải dẫn ra năm lý do nữa cơ – Bertlef nói.


- Lý do cuối cùng có sức mạnh đủ để ngang bằng với cả năm lý do – Jakub nói – Có một đứa con đồng nghĩa với việc thoả hiệp tuyệt đối với con người. Nếu tôi có một đứa con, thì cũng giống như tôi nói, tôi đã sinh ra, tôi đã nếm trải cuộc đời và tôi nhận ra rằng nó tốt đẹp đến mứ xứng đáng được lập lại.


- Thế anh không thấy cuộc sống tốt đẹp à? – Bertlef hỏi.


Jakub muốn thật chính xác nên trả lời thận trọng:


- Tôi chỉ biết một điều là tôi không bao giờ có thể nói chắc như đinh đóng cột rằng con người là sinh vật tuyệt diệu và rằng tôi muốn tái tạo nó.


- Thì chính bởi vì cậu chỉ từng biết đến cuộc sống ở một khía cạnh duy nhất, khía cạnh tệ hại nhất – bác sĩ Skreta nói – Cậu chưa bao giờ biết sống hết cả. Cậu luôn nghĩ nghĩa vụ của mình là lao vào cuộc, như người ta nói. Nhưng với cậu đó có phải là thực tế không? Chính trị. Và chính trị, trong cuộc sống nó là cái chứa đựng ít bản chất nhất và ít giá trị nhất. Chính trị, đó là thứ bọt bẩn thỉu trôi nổi trên mặt sông, trong khi thực tế cuộc sống của dòng sông nằm ở độ sâu hơn nhiều. Việc nghiên cứu sự sinh nở của phụ nữ đã diễn ra từ hàng nghìn năm nay rồi. Đó là một lịch sử vững vàng và chắc chắn. Và nó hoàn toàn dửng dưng với chuyện chính phủ này hay chính phủ khác nắm quyền hành. Còn tớ, khi tớ đeo găng cao su vào khám các bộ phận nội tạng của phụ nữ, tớ gần với tâm điểm sự sống hơn cậu, cậu, người đã suýt mất mạng chỉ vì cố công làm điều tốt cho nhân loại.


Thay vì phản đối Jakub đồng ý với những trách móc của bạn, và bác sĩ Skreta, cảm thấy được khuyến khích, nói tiếp:


- Archimède đứng trước các đường tròn, Michel-Ange đứng trước khối đá của mình, Pasteur đứng trước các ống nghiệm, chính họ, chỉ họ mới là những người đã biến đổi cuộc sống của con người và làm nên lịch sử thực sự, trong khi các chinh trị gia... - Skreta ngừng một lát và phẩy tay vẻ khinh bỉ.


- Trong khi các chính trị gia làm sao? – Jakub hỏi, và anh tiếp – tớ sẽ nói cho cậu vậy. Nếu khoa học và nghệ thuật quả thật là trường đấu thật sự, cơ bản của lịch sử, thì ngược lại chính trị là phòng thí nghiệm khoa học kín cổng cao tường, trong đó người ta bắt con người phải làm những thí nghiệm kỳ quặc. Những con người làm vật thí nghiệm ở đó bị đẩy vào những cái bẫy sập rồi được lôi lên sân khấu, mê mẩn trước những tiếng vỗ tay và kinh hoàng trước giá treo cổ, bị tố giác và bị buộc phải tố cáo. Tớ từng làm phụ tá tại trung tâm thí nghiệm như thế, nhưng ở đó nhiều lần những cũng đã là nạn nhân cho giải phẫu rồi. Tớ biết mình không tạo ra bất kỳ giá trị nào (không nhiều hơn những người làm ở đó cùng với tớ), nhưng chắc chắn ở đó tớ cũng hiểu được rõ hơn bất kỳ ai con người là gì.


- Tôi hiểu ý anh rồi – Bertlef nói – và tôi cũng biết về trung tâm thí nghiệm đó, dù tôi chưa từng bao giờ làm phụ tá phòng thí nghiệm tại đó cả, mà chỉ làm vật thí nghiệm thôi. Tôi từng ở Đức khi chiến tranh nổ ra. Chính người đàn bà mà tôi yêu hồi đó đã tố cáo tôi với Gestapo. Họ đã đến tìm cô ta và chìa ảnh tôi trên giường với một người khác cho cô ấy xem. Bức ảnh làm cô ta đau đớn, mà các anh cũng biết tình yêu bao giờ cũng mang những nét của sự thù hận. Tôi vào tù với cảm giác kỳ lạ là mình đã bị tình yêu dẫn vào đó. Các anh không thấy là thật đáng ngưỡng mộ việc nằm trong tay Gestapo và biết là chính ở đó, trên thực tế, là ưu tiên của một người đàn ông được yêu quá nhiều sao?


Jakub trả lời:


- Có một điều khiến tôi cảm thấy kinh tởm nhất ở con người, đó là chứng kiến sự tàn bạo, sự đê tiện và ngu xuẩn của nó lại thường xuyên khoác trên mặt tấm mặt nạ của trữ tình. Cô ta đẩy ông đến cái chết và cô ta coi nó như là một chiến công tình cảm chủ nghĩa của một tình yêu bị xúc phạm. và ông đã lên giá treo cổ vì một người đàn bà ngu ngốc, với cảm giác đang đóng vai trong một vở bi kịch kiểu Shakespeare viết riêng cho ông.


- Sau chiến tranh cô ta đến gặp tôi, khóc lóc – Bertlef kể tiếp, như thể không hề nghe thấy những lời công kích của Jakub – Tôi đã nói với cô ta, đừng lo lắng gì, Bertlef không bao giờ trả thù đâu.


- Ông cũng biết – Jakub nói – tôi thường nghĩ đến ông vua Hérode, khi biết vị vua tương lai của người Do Thái vừa ra đời, ông ta đã ra lệnh giết toàn bộ trẻ sơ sinh vì sợ mất ngai vàng. Cá nhân mà nói, tôi tưởng tượng ra Hérode khác cơ, dù vẫn biết rằng đó chỉ là một trò chơi của trí tưởng tượng. Theo tôi, Hérode là một ông vua có học, thông thái và rất vị tha, từ lâu nay đã làm việc trong phòng thí nghiệm chính trị và đã học được cách biết về cuộc sống và con người. Ông ấy hiểu rằng con người nhẽ ra không bao giờ nên được tạo ra. Mặt khác, các nghi ngờ của ông ấy không đến nỗi lệch lạc và đáng trách như thế. Nếu tôi không lạm dụng, thì chính Đức Chúa cũng từng nghi ngờ con người và nuôi dưỡng ý định diệt trừ cái phần cấu thành công trình của mình đó.


- Đúng – Bertlef công nhận – Điều đó được viết trong chương Sáu sáng Thế ký "Ta sẽ loại khỏi mặt đất con người mà ta đã tạo ra, bởi ta hối hận vì đã làm ra nó".


- Có thể chỉ là một giây phút yếu đuối của Đức Chúa khi cuối cùng ông ta cho phép Noé trốn trên thuyền để bắt đầu lại lịch sử loài người. Liệu chúng ta có thể chắc chắn được rằng Chúa chưa bao giờ hối hận vì quyết định đó không? Chỉ có điều, dù ông ta có hối hận hay không, thì cũng không thể làm gì được nữa. Chúa không thể tự biến mình thành dị hợm nếu cứ liên tục thay đổi quyết định. Nhưng nếu ông ta là người đã tiêm nhiễm vào dâdu Hérode ý nghĩ đó? Có thể loại trừ điều đó được không?


Bertlef nhún vai không nói gì.


- Hérode là ông vua. Ông ấy chỉ chịu trách nhiệm về bản thân mình. Ông ấy không thể tự nhủ giống tôi: người khác làm gì thì làm, tôi từ chối không muốn sinh đẻ. Hérode là vua và biết là mình phải tự quyết định cho bản thân mình và cho người khác nữa, ông ấy quyết định nhân danh toàn thể nhân loại rằng con người không bao giờ được tự tái tạo nữa. Chính vì lý do như thế mà cuộc tàn sát những đứa trẻ mới sinh đã bắt đầu. Các mục đích của ông ta không đến nỗi xấu xa như chúng ta vẫn hay nghĩ. Hérode nuôi dưỡng chín chắn trong lòng cái ý nguyện độ lượng nhất là cứu thế giới thoát khỏi nanh vuốt con người.


- Tôi rất thích cách diễn giải Hérode của anh – Bertlef nói – Tôi thích nó đến mức kể từ ngày hôm nay tôi sẽ bắt chước anh trong việc giải thích cuộc tàn sát những đứa bé vô tội. Nhưng đừng quên là chính vào lúc Herode quyết định nhân loại không được tồn tại nữa, ở Bethléhem một đứa bé trai đã thoát khỏi được lưỡi dao của ông ta. Và đứa trẻ đó đã lớn lên, đã nói với mọi người là chỉ cần có một điều là sẽ khiến cuộc sống trở nên đáng sống: yêu thương lẫn nhau. Hérode chắc hẳn có học vấn và có kinh nghiệm hơn rồi. Jesus chắc chắn là một thanh niên non nớt không biết nhiều điều của cuộc sống lắm. Toàn bộ sự rao giảng của ông ấy có thể được giải thích bằng tuổi trẻ và sự thiếu kinh nghiệm của mình. Vì ngây thơ, nếu anh muốn. Nhưng dù sao ông ấy cũng đã nắm được chân lý.


- Chân lý? Ai đã chỉ ra chân lý đó? – Jakub hỏi dồn dập.


- Không ai hết cả - Bertlef nói – Chưa ai từng chỉ ra và sẽ không có ai chỉ ra hết. Jesus yêu cha mình đến nỗi ông ấy không thể chấp nhận tác phẩm của người cha lại có thể xấu xa. Ông ấy đã đi đến kết luận đó nhờ tình yêu, chứ hoàn toàn không phải lý trí. Chính vì vậy cuộc tranh cãi giữa ông ấy và Hérode, chỉ trái tim của chúng ta mới đủ sức làm rõ bí mật. Có đáng để sống không bằng, có hay không? Tôi không có bằng chứng nào hết, nhưng với Jesus, tôi tin là có. – nói vậy xong, Bertlef mỉm cười quay sang Skreta – Chính vì thế tôi đã gửi vợ tôi đến điều trị ở đây dưới sự quản lý của bác sĩ Skreta, người theo tôi là một trong các vị thánh tông đồ của Jesus, bởi vì anh ấy biết tạo ra những điều kỳ diệu và mang lại sự sống cho những cái bụng ngủ quên của phụ nữ. Tôi xin nâng côc chúc sức khoẻ bác sĩ!


10.


Jakub luôn dành cho Olga một thái độ nghiêm khắc kiểu cha con, và vì lẽ đó anh thích tự gọi mình là "lão già". Tuy thế cô cũng biết anh có rất nhiều đàn bà, với họ anh cư xử rất khác, đó là điều khiến cô ghen với họ. Nhưng hôm nay, lần đầu tiên, cô nghĩ dù sao ở Jakub cũng đã có cái gì đó già nua rồi. Trong cách cư xử của anh với cô, một người trẻ tuổi, cô cảm thấy cái mùi ẩm ướt lan toả từ thế hệ trước.


Những ông già tự nhận ra nhau ở thói quen tâng bốc các đau đớn trong quá khứ và từ đó xây dựng một viện bảo tàng, nơi họ mời khách đến xem (những bảo tàng đó mới có ít khách làm sao!) Olga hiểu trong bảo tàng của Jakub cô là hiện vật sống động chính yếu, và thái độ hiền hậu độ lượng của Jakub với cô chỉ có mục đích là khiến khách tham quan phải nhỏ lệ.


Hôm nay, cô cũng đã phát hiện vật vô tri quý giá nhất của bảo tàng đó, viên thuốc màu xanh nhạt. Vừa nãy, khi anh mở tờ giấy gói viên thuốc, cô đã ngạc nhiên và không cảm thấy chút xúc động nào. Hiểu là Jakub luôn nghĩ đến việc tự tử vào những giai đoạn khó khăn, cô thấy cung cách trang trọng khi anh cho cô biết điều đó thật là lố bịch. Cô thấy lố bịch vì anh mở tờ giấy lụa với thái độ chăm chú đến thế, như thể nó chứa một viên đá quý vậy. Và cô không hiểu tại sao tất cả những người trưởng thành lại phải làm chủ được cái chết của mình trong mọi trường hợp. Nếu khi ra đến nước ngoài bị ung thư thì không biết anh có cần đến thuốc độc không? Nhưng không, với Jakub, viên thuốc không chỉ là một thứ thuốc độc đơn thuần, nó còn là một thứ đồ phụ trợ mang tính biểu tượng mà giờ đây anh muốn dâng lên cho vị giáo sĩ trong một buổi lễ linh thiêng. Có gì đó đáng cười.


Cô ra khỏi phòng tắm và đi về phía khách sạn Richmond. Dù tất cả những ý nghĩ phản tỉnh đó, cô vẫn thích gặp Jakub. Cô có mon muốn lớn lao là phàm tục hóa bảo tàng của anh đi, đi vào đó với tư cách một người đàn bà chứ không phải một vật trưng bày.


Do đó cô hơi thất vọng khi thấy trên cửa phòng anh có một mẩu giấy nhắn cô đến gặp anh ở phòng bên cạnh, có cả Bertlef và Skreta. Ý nghĩ phải gặp anh cùng với những người khác khiến cô đánh mất sự dũng cảm, nhất là khi cô không biết Bertlef, và bác sĩ Skreta vẫn thường rất hững hờ với cô.


Bertlef khiến cô nhanh chóng quên đi sự rụt rè. Ông cúi gập người tự giới thiệu và trách bác sĩ Skreta đã không chịu cho ông làm quen với một người phụ nữ thú vị nhường ấy.


Skreta trả lời là Jakub chịu trách nhiệm coi sóc cô gái và anh đã cố ý không giới thiệu cô với Bertlef vì biết rằng sẽ không người phụ nữ nào kháng cự nổi trước ông.


Bertlef đón nhận sự xin lỗi đó với một vẻ hài lòng tươi cười. Rồi ông nhấc điện thoại lên và gọi khách sạn để đặt bữa tối.


- Thật không tin nổi – bác sĩ Skreta nói – làm thế nào mà ông bạn chúng ta có thể sống vương giả thế tại cái chốn khỉ ho cò gáy không có đến nổi một quán ăn ra hồn thế này.


Bertlef lục trong một cái hộp đựng xì gà đặt cạnh điện thoại, đựng đầy những đồng xu nửa dollar:


- Hà tiện là một tội lỗi... - ông mỉm cười nói.


Jakub nhận xét anh chưa từng gặp ai tin Chúa nồng nhiệt đến thế, mà vẫn biết cách hưởng thụ cuộc đời.


- Chắc chắn là bởi vì anh chưa bao giờ gặp được một tín đồ Thiên Chúa giáo đúng nghĩa. Cái từ Phúc Âm, chắc các bạn cũng biết, có nghĩa là thông điệp của niềm vui. Hưởng thụ cuộc sống, đó là lời dạy quan trọng nhất của Jesus.


Olga nhận thấy mình có một cơ hội để xen vào cuộc trò chuyện:


- Bằng vào những gì mà các giáo sư từng nói với tôi, các tín đồ Thiên Chúa chỉ nhìn thấy trong cuộc sống nơi trần thế một thung lũng nước mắt và vui sướng với ý nghĩ cuộc sống thực sự chỉ bắt đầu với họ sau khi chết đi.


- Thưa quý cô thân mến – Bertlef nói – Đừng tin vào các giáo sư.


- Và tất cả các vị thánh – Olga nói – chỉ làm mỗi một việc là chối từ cuộc sống. Nhẽ ra phải làm tình, họ lại tự hành xác, nhẽ ra phải tranh luận như ông và tôi, thì họ lại lui về các nhà tu kín, nhẽ ra phải đặt bữa tối qua điện thoại, thì họ lại nhai rễ cây.


- Cô không hiểu gì về các thánh rồi, thưa quý cô. Những người đó thiết tha với cuộc đời vô cùng tận. Chỉ có điều, họ nhập thế theo cách khác. Theo cô, khoái lạc lớn nhất của con người là gì? Cô có thể thử đoán xem, nhưng thế nào cô cũng nhầm, bởi vì cô không đủ thành thực. Đó không phải là một lời trách cứ, bởi sự thành thực đòi hỏi phải hiểu biết chính mình và sự hiểu biết lại là thành quả của tuổi tác. Làm thế nào một cô gái trẻ toả rạng hào quang của tuổi trẻ như cô lại có thể thành thực? Cô ta không thể thành thực bởi vì cô ta không biết cả đến trong mình có gì. Nhưng nếu cô ta biết được, cô sẽ phải chấp nhận với tôi rằng khoái lạc lớn nhất là được ngưỡng mộ. Cô không nghĩ thế ư?


Olga trả lời là cô biết nhiều khoái lạc.


- Không, - Bertlef nói – hãy lấy ví dụ vận động viên điền kinh của các bạn, người mà trẻ con đứa nào cũng biết vì đã liên tục mang về ba chiến thắng trên đường chạy Olympic. Cô có nghĩ anh ta chối từ cuộc sống không? Thế mà, nhẽ ra phải trò chuyện, phải làm tình và chơi bời, thì anh ta bắt buộc phải trải qua rất nhiều thời gian chạy vòng quanh sân vận động. Sự tập luyện của anh ta rất giống với những gì mà các vị thánh nổi tiếng nhất của chúng ta đã làm. Thánh Macaire, thành Alexandrie, khi ở ngoài sa mạc, đã đều đặn rót đầy một rổ đựng cát, ông đặt nó lên lưng và ngày qua ngày bước đi cho đến khi kiệt sức hoàn toàn. Nhưng chắc chắn là có tồn tại, với vận động viên điền kinh của các bạn cũng như với thánh Macaire thành Alexandrie, một phần thưởng lớn lao đền đáp đầy đủ cho tất cả nỗ lực của họ. Cô có biết nghe thấy những tiếng vỗ tay của một sân vận động Olympic vĩ đại có ý nghĩa thế nào không? Không có niềm vui nào lớn hơn đâu! Thánh Macaire thành Alexandrie biết tại sao mình phải mang rổ cát trên lưng. Vinh quang của các nhà marathon trên sa mạc đã sớm lan rộng trogn toàn giới Thiên chúa. Và thánh Macaire cũng giống như vận động viên của các bạn đã chiến thắng ở cự ly năm nghìn mét, rồi mười nghìn mét và cuối cùng như thế vẫn chưa đủ, anh ta chiến thắng nốt ở giải marathon. Ham muốn được ngưỡng mộ thật vô cùng. Thánh Macaire đã đến một nhà tu ở Thébese không báo trước và xin được chấp nhận làm thành viên ở đó. Nhưng sau đó khi đại lễ mùa chay tới, sự vinh quang của ông cũng tới theo. Toàn bộ các tu sĩ trai giới ngồi, nhưng ông đã đứng suốt bốn mươi ngày ăn chay! Đó là một chiên thắng mà cô không tưởng tượng nổi đâu! Hoặc, cô có nhớ đến thánh Siméon ẩn sĩ trên cột không? Ông đã dựng trên sa mạc một cái cột, trên đỉnh chỉ có một cái sân nhỏ. Trên đó không thể ngồi được, bắt buộc phải đứng. Và ông đã đứng đó suốt đời và toàn bộ giới Thiên Chúa ngưỡng mộ nhiệt thành kỷ lục khó tin của một con người dường như vượt quá mọi ngưỡng cửa của nhân loại này. Thánh Siméon, đó là Gagarine của thế kỷ thứ năm. Cô có thể tưởng tượng được hạnh phúc của nữ thánh Genevieve của Paris ngày mà một đoàn lái buôn Golois báo với bà là thánh Siméon từng nghe nói đến bà và chúc phúc cho bà từ trên cây cột của mình? Thế cô nghĩ tại sao ông tìm cách lập kỷ lục? có thể bởi vì ông không hề lo nghĩ đến cuộc sống lẫn con người ư? Đừng ngây thơ thế! Các Cha của Nhà thờ biết rất rõ là thánh Siméon rất trọng danh tiếng và đã thử thách ông. Nhân danh quyền lực tinh thần, họ đã ra lệnh cho ông xuống khỏi cột và từ bỏ cuộc đua. Thật là một đòn đau với thánh Siméon! Nhưng, hoặc vì minh triết hoặc vì khôn ngoan, ông đã nghe lời. Các Cha của Nhà thờ không hề phản đối các kỷ lục, nhưng họ muốn chắc chắn sự háo danh của thánh Siméon không khiến ông lơi là kỷ luật. Khi họ thấy ông buồn bã đi xuống ngay lập tức họ đã ra lệnh leo lên trở lại, khiến cuối cùng thánh Siméon ẩn sĩ trên cột đã có thể chết trên cột, được bao quanh bởi tình yêu và lòng ngưỡng mộ của loài người.


Olga chăm chú lắng nghe, cô bật cười khi nghe những lời cuối cùng của Bertlef.


- Cái ham muốn tuyệt vời được ngưỡng mộ đó không có gì là đáng cười đâu, tôi thấy nó gây xúc động thì đúng hơn – Bertlef nói – Người nào muốn được ngưỡng mộ sẽ thiết tha với những người gần gũi với mình, quan tâm đến họ, không thể sống được nếu thiếu họ. Thánh Siméon một mình ở sa mạc, trên một mét vuông đỉnh cột. Thế nhưng ông lại ở với tất cả mọi người! Ông tưởng tượng hàng triệu cặp mắt đang dõi lên mình. Ông hiện diện trong hàng triệu ý nghĩ và ông sung sướng vì điều đó. Đó chính là một tấm gương lớn về tình yêu con người và tình yêu cuộc sống. Cô đừng nhầm, thưa quý cô yêu quý, về điểm thánhSiméon vẫn tiếp tục sống trong mỗi chúng ta. Và đến ngày nay ông vẫn là điểm cực tốt đẹp nhất của giống loài chúng ta.


Có tiếng gõ cửa và một người phục vụ bước vào, đẩy trước mặt một chiếc xe chất đầy đồ ăn. Anh ta trải khăn lên bàn và đặt dao đĩa. Bertlef tìm trong hộp đựng xì gà và nhét vào túi người phục vụ một nắm tiền xu. Sau đó, họ bắt đầu ăn, người phục vụ đứng ở sau để rót rượu vangvà phục vụ món.


Bertlef say sưa bình luận mùi vị mỗi món ăn và Skreta lưu ý là không biết từ bao lâu anh chưa được ăn một bữa ngon như thế này.


- Có thể lần cuối cùng mẹ tôi nấu cho tôi ăn, nhưng khi đó tôi còn nhỏ lắm. Tôi mồ côi từ khi năm tuổi. Thế giới bao quanh tôi là một thế giới xa lạ và với tôi cái bếp cũng xa lạ. Tình yêu với đồ ăn nảy sinh từ tình yêu với người gần gũi.

Chương trước | Chương sau

↑↑
Nhà giả kim - Paulo Coelho

Nhà giả kim - Paulo Coelho

Trích đoạn: Fatima "Nếu em là một phần của vận mệnh anh thì sẽ có một

15-07-2016 43 chương
Lợn đi chợ

Lợn đi chợ

Ông chủ lùa một con Lợn béo, một con Dê và một con Cừu lên xe ngựa mang ra chợ.

24-06-2016
Nhưng tôi không yêu em...

Nhưng tôi không yêu em...

Người đến và đi vốn dĩ là quy luật. Cảm xúc với từng người là duy nhất. Lúc còn

29-06-2016
Tin tốt lành

Tin tốt lành

"Ý nghĩa cuộc sống không phải ở chỗ nó đem đến cho ta điều gì, mà ở chỗ ta có

24-06-2016
Vong Hoàng Lan

Vong Hoàng Lan

Tác phẩm này được đổi tên những ba lần. Lần đầu tôi đặt tên là “Bóng Hoàng

23-07-2016 55 chương
Bài học lớn

Bài học lớn

Có làm thì mới có ăn Không dưng ai dễ đem phần đến cho. *** Một người đàn bà ăn

26-06-2016
Bây giờ ba ở đâu?

Bây giờ ba ở đâu?

Mẹ làm thư ký văn phòng nên dễ bị lôi cuốn. Tôi hơi khó chịu vì chiếc váy đầm mẹ

30-06-2016