Vương Nhược lắc đầu đáp, “Muội về cũng chỉ nằm đấy thôi, chi bằng ngồi lại nghe kể chuyện.”
bạn đang xem “Trâm – Nữ Hoạn Quan ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!Kỳ Lạc quận chúa ác khẩu chêm vào một câu, “Phải đấy, vương phi hiện giờ nên ở chỗ đông người thì hơn, để khỏi…”
Để khỏi thế nào, Kỳ Lạc không nói hết, song ai nấy đều hiểu cả, ngay Triệu thái phi cũng đưa mắt nhìn sang.
Cẩm Nô ngồi xuống ghế, ôm cây tỳ bà rủ rỉ kể, “Mười sáu năm trước, giữa Dương Châu phồn hoa, sư phụ và năm tỷ muội khác cùng lập ra Vân Thiều Uyển, sáu người được xưng tụng là Vân Thiều Lục Nữ. Về sau sư phụ xuất giá, sinh được một con gái, gặp lúc tiên đế ban chiếu triệu kiến, năm người trong Vân Thiều Lục Nữ phụng chiếu lên kinh, chỉ mình sư phụ vừa sinh nở, thì ở cữ tại nhà. Bấy giờ ở Dương Châu còn một phường ca vũ khác tên là Cẩm Lý Viên, vì người người đều nói ‘cảnh phồn thịnh của Dương Châu đều ở Vân Thiều’, bọn họ không phục, bèn đi tìm đủ ba mươi sáu ca kỹ người Hồ đem về. Hằng năm đến ngày Đông chí, cung Giang Đô mở cửa để nam phụ lão ấu khắp nơi lũ lượt vào chơi, nắm tay nhau đạp ca(*), là lễ lớn mỗi năm một lần ở Dương Châu. Mà trước khi đạp ca, ắt phải bầu chọn ra kỹ viện nổi tiếng nhất Dương Châu diễn tấu mở màn. Năm ấy, theo lệ vẫn là các vũ cơ của Vân Thiều Uyển múa mở màn trên đại điện cung Giang Đô. Khi điệu múa đầu tiên còn chưa kết thúc thì lầu gác phía đối diện chợt trỗi nhạc lên, ba mươi sáu ca kỹ người Hồ kia, có mười hai người gảy đàn không hầu và thổi sênh thổi sáo, còn hai mươi tư vũ cơ mặc sức ca múa. Những người Ba Tư nọ đi chân trần, khoác voan mỏng, eo lưng thon thả, lại thêm tóc vàng mắt xanh, xoay tròn như gió, toát lên một vẻ phong tình quyến rũ riêng. Tức thì cả đám người xem nhao nhao chạy sang bên kia, thi nhau ngắm nhìn phong tư các vũ cơ người Hồ, khiến cảnh tượng náo loạn cả lên, ồn ào huyên náo. Bấy giờ đội vũ cơ của Vân Thiều Uyển cũng luống cuống tay chân, đành thõng tay đứng trên đài chẳng biết làm sao cho phải. Năm ấy Cẩm Nô mới tám tuổi, đang ở cùng với sư phụ và đứa con nhỏ đầy tháng ở hậu điện, nghe thấy đằng trước náo loạn, sư phụ bèn giao đứa nhỏ vào tay Cẩm Nô, ra cửa xem thử, thấy mọi người đang xôn xao túm tụm ở bên kia. Ba mươi sáu Hồ cơ tiêu sáo rộn ràng, eo lưng mềm mại, lại liếc mắt đưa tình với khắp mọi người, khiến người xem bên dưới nhao nhao khen hay, không khí sôi nổi vô cùng. Trái lại bên này vắng hoe vắng ngắt, chỉ có mấy người xem đang thu dọn chuẩn bị chạy nốt sang bên kia. Thấy cảnh đó, sư phụ liền bước tới bên một ca kỹ, đón lấy cây tỳ bà trong tay cô ta rồi ngồi xuống chiếc ghế kê gần đại điện, gảy tỳ bà theo điệu đạp ca. Tiếng tỳ bà vừa cất lên đã vang khắp cung Giang Đô, khiến chim chóc giật mình bay vút lên, muôn núi ngàn khe đều vọng tiếng; chỉ sau đôi ba câu, hai mươi tư vũ nữ Ba Tư kia đã loạn hết vũ điệu, ra sức lắc hông lại theo không kịp tiết tấu; chưa hết nửa khúc thì mười hai nhạc cơ kia cũng chẳng tấu nổi nữa, không hầu sênh sáo đều im bặt. Cả cung Giang Đô chỉ nghe thấy tiếng tỳ bà thánh thót vang vọng, như mưa hoa ngập trời, trân châu tuôn chảy. Khúc nhạc chưa dứt thì tuyết đã lả tả rơi giữa ngày Đông chí, những bông tuyết tung bay, xoay vần theo tiếng tỳ bà, tựa hồ khói bụi tục thế đều đã được tiếng nhạc đưa thẳng đến chín tầng mây, trên thấu tai trời, dưới trùm muôn người. Cả ngàn người trong cung Giang Đô đều im phăng phắc đứng dưới trời tuyết đổ mà nghe, không một ai dám thở mạnh, chỉ e làm rối loạn tiếng đàn.”
(*) Một hình thức nghệ thuật vừa múa vừa hát theo điệu nhạc.
Nghe Cẩm Nô tả, mọi người bất giác cũng nín thở, ngay Triệu thái phi còn vỗ tay tấm tắc, “Quả là thần kỹ!”
Hoàng Tử Hà thầm hình dung ra cảnh tượng ngày hôm ấy, không khỏi mê mẩn tâm thần, cõi lòng rung động hồi lâu.
“Thưa phải, cả đời này, có lẽ Cẩm Nô chẳng thể nào nghe lại khúc tỳ bà hôm ấy nữa.” Cẩm Nô mỉm cười, gương mặt đầy vẻ ao ước, “Khúc đạp ca kết thúc, dư âm còn văng vẳng, sư phụ lại tấu thêm một khúc, lần này tiếng tỳ bà không cao vút ngạo nghễ như lúc trước mà chuyển thành trong trẻo ngân nga, như thôi thúc chân tay du khách, khiến mọi người đều chộn rộn muốn vận động. Các vũ cơ Vân Thiều Uyển trên điện định thần lại, lập tức theo lệ xếp thành từng tốp, nhảy múa mở đầu màn đạp ca. Du khách khắp cung thoáng chốc như mê như say, nắm tay nhau nhảy giữa trời tuyết theo tiếng nhạc, bắt đầu đạp ca suốt đêm. Về sau, ở Dương Châu có lời đồn, một khúc tỳ bà của Mai Văn Trí chống được cả điệu múa ma mị của trăm người.”
“Ta không tin.” Kỳ Lạc quận chúa thình lình ngắt lời Cẩm Nô, “Trên đời sao lại có tiếng tỳ bà thần diệu đến thế, hẳn là ngươi bịa đặt.”
Cẩm Nô im lặng, chỉ mỉm cười cúi đầu nhìn xuống đất.
“Có lẽ ngày tháng lâu dài, đã tô đẹp thêm cho ký ức rồi chăng?” Hoàng hậu hờ hững nói, đoạn quay lại dặn nữ quan Trường Linh đứng hầu phía sau, “Bảo người của nội giáo phường đưa đến một cây tỳ bà nội phủ, ban tặng Cẩm Nô cô nương.”
Cẩm Nô vội bái tạ, lại thưa, “Cây tỳ bà này của Cẩm Nô tên gọi 'Thu lộ hành sương', là quà sư phụ tặng ngày trước, bấy nhiêu năm nay dùng mãi đã quen, e rằng không đổi được.”
Hoàng hậu liền nói, "Vậy bảo nội phủ đưa mấy món như móng gảy bằng ngọc, dây đàn và phấn hương thông đến đây, mấy thứ này hẳn là dùng được."
Cẩm Nô lại bái tạ lần nữa. Triệu thái phi vẫy tay nói, “Được rồi, đã gặp Quỳ vương phi rồi, ta cũng nên về nghỉ thôi. Vương phi cũng lo bồi bổ tinh thần đi, mấy ngày nữa là đại hỉ rồi, đến chừng đó ta sẽ sai người tới uống rượu mừng.”
"Đa tạ thái phi." Vương Nhược yêu kiều vái tạ.
Triệu thái phi lại dẫn cả đám người đi khỏi. Trường Linh ra hiệu cho Cẩm Nô về trước, đồ vật trong cung ban thưởng sau này sẽ đưa tới tay.
Hoàng Tử Hà cũng theo Vương Nhược đứng dậy, cùng nàng sang sảnh bên nghỉ ngơi.
Bước xuống thềm, Kỳ Lạc quận chúa còn nói bằng một giọng đủ lọt tai Vương Nhược, “Xinh đẹp thì có gì lạ đâu, con thấy dung mạo nghệ nhân này còn hơn khối thiên kim nhà khác.”
Vương Nhược hiểu rõ Kỳ Lạc đang châm chọc mình, song vẫn giữ vẻ điềm nhiên chỉ riêng Cẩm Nô nãy giờ ngơ ngẩn trầm tư, lúc này chợt cười nhạt thưa, “Quận chúa nói đùa rồi, luận về dung mạo thì không đến lượt Cẩm Nô, sư phụ mới thực là giai nhân nghiêng thành nghiêng nước.”
“Sư phụ ngươi ư?” Kỳ Lạc quận chúa nào để Cẩm Nô vào mắt, chỉ nói, “Trên đời hiện giờ, trừ hoàng hậu điện hạ, còn kẻ nào dám xưng ‘nghiêng thành nghiêng nước’ chứ?”
“Quận chúa nói rất phải.” Cẩm Nô bị mai mỉa song chẳng lấy làm điều, chỉ cười cười quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, đôi mắt cong lên như hai vành trăng non, “Dương công công, còn nhớ lần trước tôi nói không? Tôi biết rất nhiều cô gái đem lòng ngưỡng mộ Quỳ vương gia, ví như…. mấy tỷ muội ở Dương Châu và trong giáo phường. Nếu công công có thể khiến Quỳ vương năng lui tới giáo phường thì tốt quá.”
Hoàng Tử Hà không đáp, chỉ mỉm cười gật đầu.
Mãi tới khi Cẩm Nô đi khỏi, Kỳ Lạc quận chúa mới nhảy dựng lên, “Ả ta… ả ta nói các tỷ muội giáo phường ngưỡng mộ… ngưỡng mộ Quỳ vương là có ý gì chứ?”
Hoàng Tử Hà lặng thinh, bụng bảo dạ, cô có thể đem một kẻ xướng ca vô loài ra ví với Quỳ vương phi, tại sao cô ấy không thể lấy các tỷ muội giáo phường ra ví với cô?
Nhìn theo dáng điệu tha thướt của Cẩm Nô, lòng Hoàng Tử Hà vừa thấy khoan khoái vì hả giận, vừa lo thay cho Cẩm Nô đã đắc tội với Kỳ Lạc quận chúa.
Vương Nhược sang sảnh bên nghỉ ngơi. Hoàng Tử Hà và bọn Tố Khởi, Nhàn Vân, Nhiễm Vân ngồi bên ngoài đợi, sợ quấy rầy nàng.
Tố Khởi đang cùng nữ quan Trường Linh ngắm nhìn những mẫu hoa trang trí mới trong cung. Giờ là buổi chiều, đêm qua Hoàng Tử Hà lại không ngon giấc nên lơ mơ buồn ngủ. Chợt sau tấm bình phong ở nội điện vang lên tiếng loảng xoảng, tiếp đó là tiếng chim kêu, rồi đến tiếng thét kinh hoàng của Vương Nhược.
Hoàng Tử Hà giật mình sực tỉnh, lúc cô đứng phắt dậy thì Tố Khởi và Trường Linh đã vứt đám cung hoa chạy vào trong điện. Cô hốt hoảng chạy theo, chỉ thấy Vương Nhược đang co rúm trên sập, run lẩy bẩy, trên đệm là một nắm tóc mai bị cắt.
Trường Linh trỏ ra ngoài song, kinh hoàng nói, “Bên kia… Tôi thấy thích khách từ bên kia vượt song chạy trốn!”
Hoàng Tử Hà vội chạy đến bên cửa sổ xem xét, chỉ thấy phía sau là khoảnh sân vắng tanh vắng ngắt.
Cô lập tức quan sát kỹ bên dưới khung cửa và mái cong bên trên, xem có thích khách nấp ở đó không, song chẳng hề thấy một ai cả. Hoàng Tử Hà lấy làm ngạc nhiên, một nơi rộng thế này, thứ gì cũng đập ngay vào mắt, không có chỗ nào ẩn thân, nếu thích khách đã bị Trường Linh bắt gặp lúc vượt tường nhảy ra thì nhất định không thoát được tầm nhìn của cô.
Song trong một khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, thích khách đã chạy đi đâu?
Cô do dự quay đầu nhìn Vương Nhược, chỉ thấy nàng ôm chặt lấy chăn, ngồi bên mép giường, bóng chiều nhập nhoạng hắt lên mặt, mớ tóc bị cắt xổ tung, lọn dài lọn ngắn buông xõa bên mai, không sao vén lại được, phủ bóng mờ xuống má nàng, càng lộ rõ vẻ yếu ớt.
Hoàng hậu từ chính điện chạy sang, nghe bọn họ thuật lại đầu đuôi, liền nổi trận lôi đình, “Ngay tai cung Đại Minh này, giữa thanh thiên bạch nhật mà lại có thích khách đột nhập hòng gây hại cho vương phi! Đám người ở ty Phòng vệ đang làm cái gì vậy hả!”
Tất cả đều nín thít, không dám lên tiếng.
“Ta phải yết kiến bệ hạ, chuyện này không thể coi thường được.” Nói đoạn hoàng hậu đi thẳng ra cửa điện, chợt ngoái lại nhìn lướt qua mọi người, bảo, “Nếu chuyện này lan truyền ra, hẳn là lời đồn đại đang xôn xao trong kinh sẽ càng nghiêm trọng. Truyền chỉ của ta, lệnh cho mọi người trong cung không được tiết lộ ra ngoài. Vĩnh Khánh, ngươi lập tức đến vương phủ báo cho Quỳ vương, mời vương gia vào cung ngay.”
Đại hoạn quan Vĩnh Khánh vội vâng dạ rồi hối hả chạy đi.
Đợi hoàng hậu đi khỏi, tất cả mới xúm lại trấn an Vương Nhược, Nhàn Vân cảm kích nói, “Hoàng hậu suy nghĩ chu đáo thực, người đã săn sóc vương phi tận tình như thế, nhất định sẽ bảo vệ vương phi bình yên vô sự mà.”
Vương Nhược xem chừng hoảng sợ quá độ, chỉ ngồi ngây ra không nói năng gì.
Không lâu sau, ý chỉ của hoàng đế đến, Quỳ vương phi trước hết cứ vào ở trong điện Ung Thuần cung Đại Minh, phái Nội Đình điều một trăm quân thủ vệ trong kinh do Phòng vệ ty hữu đô úy Vương Uẩn đích thân thống lĩnh; Quỳ vương phủ lại điều thêm một trăm hộ vệ trong vương phủ, hai trăm người ngày đêm luân phiên bảo vệ điện Ung Thuần, đề phòng vạn nhất.
“Tốt quá rồi, có hai trăm người ở đây, cung Đại Minh lại sẵn có ba ngàn ngự lâm quân ngày đêm bảo hộ, kẻ khả nghi không thể trốn được.” Nhiễm Vân mừng rỡ động viên. Vương Nhược cũng đành gượng cười cho qua chuyện.
Điện Ung Thuần là một ngôi điện nhỏ nằm ở góc Đông Nam cung Đại Minh, vốn dùng làm nhà kho trong cung nên tường vách rất cao rất dày, có thể xem là nơi nghiêm ngặt nhất.
Mặt phía Tây là trọng điểm bảo vệ, bởi nơi này kề cửa lớn trong cung, nếu có người ngoài xâm nhập, hẳn phải vào theo hướng này. Có điều thiết kế điện rất chặt chẽ, mặt Tây là bức tường cao gấp ba người, chỉ mở một cửa ngách, hiện giờ có hai trăm lính phòng vệ, nên ngoài việc hạ lệnh khóa chặt cửa ngách, không cho bất cứ kẻ nào ra vào, thì bên trong bên ngoài cửa còn phái mỗi bên tám người canh gác, có thể nói là vững như thành đồng.
Mặt Bắc quay về phía nội cung, song cũng được canh gác nghiêm ngặt, ngoài hai lớp cửa đóng chặt còn có lính gác. Hơn nữa, dù là người đi tuần phiên thì buổi tối sau khi cài cửa bấm khóa, cũng không được ra vào nữa, để tránh có người trà trộn vào đội tuần tra.
Theo sắp xếp cụ thể thì tổng cộng có ba phòng tuyến bao quanh Vương Nhược - trong cùng là các cung nữ và hoạn quan ở nội điện và các lầu gác xung quanh, luôn luôn trông chừng nàng. Tiếp theo là ba mươi người ở ngoài đại sảnh, phân tán tại các hành lang và chốt gác, bất cứ lúc nào cũng có thể trông thấy người ra vào nội điện và lầu gác. Ba mươi người đứng dọc theo mé trong tường cung, lại có ba mươi người tuần tra mé ngoài. Mỗi toán gồm chín mươi người, cùng tám đội trưởng, hai thủ lĩnh phụ trách. Tổng cộng hai trăm người chia làm hai toán luân phiên.
Điện Ung Thuần vốn không lấy gì làm rộng, nay lại có hai trăm thủ vệ liên tục canh gác, khó tránh cảm giác chật như nêm cối.
“Trong điện đã được lục soát kỹ, không có bất cứ ai lẻn vào cả, xin vương phi yên tâm!” Hai vị thủ lĩnh của cấm vệ quân và hộ vệ vương phủ bẩm báo với Vương Nhược và Vương Uẩn.
Vương Uẩn nghe vậy cũng đứng dậy cáo từ Vương Nhược, “Sắp khuya đến nơi rồi, muội nghỉ sớm đi, ta ra đằng trước điện xem sao.”
Vương Nhược và Hoàng Tử Hà tiễn hắn đến cửa, nhìn theo mãi đến khi khuất bóng.
Hoàng Tử Hà đứng ở cửa điện, nhìn ra đám thủ vệ lố nhố đứng ngoài hành lang hay nép trong hòn giả sơn, trận thế bao vây tầng tầng lớp lớp như thế, khiến hình ảnh chiếc lồng chim trong tay kẻ thần bí ở chùa Tiên Du lại hiện ra trước mắt cô. Có điều, ai mà ngờ được, chiếc lồng trúc tía ken dày như thế, lại có một cơ quan bí mật, chỉ cần một động tác nhỏ là có thể xoay chuyển càn khôn, trộm rồng tráo phượng.
Mà Vương Nhược cũng chẳng khác gì con chim nhỏ trong lồng kia, một mình ngồi trong nội điện, nhìn các cung nữ hối hả thắp đèn, vẻ trầm tư.
Hoàng Tử Hà bước đến gần, hỏi khẽ, “Vương phi đang nhìn gì vậy?”
Vương Nhược thôi nhìn mấy ngọn đèn, từ từ ngẩng lên nhìn cô, trong cặp mắt long lanh lệ thấp thoáng ánh đèn lấp loáng, “Sùng Cổ, ta…”
Cổ họng nàng nghẹn lại, giọng khàn khàn, khẽ đến gần như không thể nghe tiếng, “Ta cảm thấy một tháng vừa qua cứ như một giấc mộng phù sinh vậy. Có được những thứ mà nằm mơ cũng không sao tưởng tượng nổi, nhưng chỉ trong nháy mắt tất cả lại sẽ trở thành ảo mộng, như ngọn đèn bấc chẳng mấy chốc đã lụi tàn.”
Hoàng Tử Hà nghe ra vô vàn xót xa trong giọng nói của Vương Nhược, niềm xót xa đó, dường như còn ẩn giấu một nỗi bi ai sâu thẳm.
Gió từ ngoài cửa nhè nghẹ thổi vào, ngọn đèn chầm chậm xoay tròn trong gió, lập lòe chớp tắt.
Gió nổi đèn xuân leo lét, mưa qua sầu cũ lưu niên, Hoàng Tử Hà nhìn gương mặt cúi gằm của Vương Nhược, một thiếu nữ đương độ tuổi hoa rực rỡ thế này mà lại như rơi xuống vực thẳm, đi trên băng mỏng thế ư?
Tuy chẳng biết tâm hồn nàng thực sự ra sao, Hoàng Tử Hà vẫn không khỏi thương xót, bèn nhỏ giọng khuyên nhủ, “Vương phi yên tâm đi, giờ vương phi đang ở trong cung Đại Minh, có bấy nhiêu binh sĩ hộ vệ cẩn mật, đến con ruồi còn không bay vào được, sao có thể xảy ra chuyện gì chứ?”
Vương Nhược gật đầu, song vẻ mặt vẫn đầy tâm sự.
Hoàng Tử Hà cũng chẳng biết phải an ủi thế nào, chỉ cảm thấy hình như hoàng hậu đã nghiêm trọng hóa vấn đề, thành ra làm tăng thêm áp lực cho Vương Nhược. Đang định vỗ về nàng mấy câu, chợt cô ngẩng lên, trông thấy Lý Thư Bạch thình lình xuất hiện giữa ánh đèn sáng trưng như ban ngày phía ngoài.
Y bước đến cửa nội điện nhìn vào bên trong, Nhàn Vân Nhiễm Vân vội vàng hành lễ, Tố Khởi đỡ Vương Nhược đứng dậy hành lễ với y.
Dưới ánh đèn, cô trông thấy ánh mắt Vương Nhược khi nhìn Lý Thư Bạch chẳng khác nào viên ngọc được lọc rửa, phát sáng lấp lánh mê người. Song vẻ mặt nàng lại vừa thẹn thùng vừa đượm phần thê lương, nửa vui nửa buồn, đến nụ cười cũng không che lấp được nét âu sầu thấp thoáng giữa đôi mày.
Lý Thư Bạch nhìn nàng, gật đầu chào, song chẳng nói năng gì, chỉ ra hiệu cho Hoàng Tử Hà ra ngoài.
Hoàng Tử Hà vội hành lễ với Vương Nhược rồi bước ra, cùng Lý Thư Bạch đi dọc theo con đường lát đá xanh ở đình giữa, băng qua đống giả sơn, đi đến hành lang ở đại sảnh. Nơi này cách nội điện của Vương Nhược chừng năm trượng, đứng đây có thể trông rõ mồn một tất cả động tĩnh bên ấy.
Lý Thư Bạch nhìn sang phía đó, hỏi, “Tối nay định sắp xếp thế nào?”
“Tố Khởi, Nhàn Vân, Nhiễm Vân hầu hạ vương phi ngủ ở gác bên trái, tôi và bọn An Phúc ở gác phải, hai bên chỉ cách nhau một sảnh nhỏ, có chuyện gì cũng có thể trông chừng lẫn nhau.”
“Ừm, ta không tin trong cung Đại Minh này, giữa vòng vây trấn giữ của binh lính, dưới sự trông chừng của mọi người mà vẫn có thể xảy ra chuyện đâu.” Lý Thư Bạch nói, đoạn cau mày, “Còn bảy ngày nữa là đến hôm nạp phi rồi, giờ hoàng hậu lại bày vẽ rình rang thế này, sự việc thành ra hơi phiền phức.”
Hoàng Tử Hà đang bận nghĩ xem là phiền phức gì, thì Lý Thư Bạch hờ hững nói tiếp, “Đang định trong hai ngày tới sẽ đưa vụ canh thiếp kia ra, dù sao thời gian cũng cấp bách rồi.”
Giọng y vô cảm, bình thản như đang nói chuyện thời tiết, không buồn bã, chẳng căm ghét, lại càng lộ rõ sự vô tình.
Nhớ đến khuôn mặt yếu đuối mơ màng của Vương Nhược, Hoàng Tử Hà không nhịn được hỏi khẽ, “Lẽ nào vương gia muốn đợi đến thời khắc sách lập vương phi thì vạch trần chân tướng ư? Nếu làm vậy e rằng sẽ khiến hoàng hậu và cả nhà họ Vương bẽ mặt.”
“Ta sẽ âm thầm giải quyết chứ, sao có thể làm mất thể diện họ Vương Lang Gia được.”
Hoàng Tử Hà chưa biết nói gì, ngoái đầu lại thì thấy Vương Nhược đang từ trong nội điện đi đến. Gió đêm lạnh lẽo thổi tung vạt áo và tơ tóc, nàng vận xiêm y vàng, tóc búi lỏng, bên mai gài một cây trâm hình sương đọng trên lá, dẫn theo Nhiễm Vân, băng qua đám giả sơn trong sân, tiến về phía họ.
Thân hình nàng chỗ nở chỗ thon vừa vặn, cao hơn những cô gái bình thường cả nửa cái đầu, dáng đi lại như gió lướt qua mặt nước, uyển chuyển mê người. Đến trước mặt họ, nàng yêu kiều bái chào, nói khẽ, “Tham kiến Quỳ vương gia.”
Lý Thư Bạch gật đầu ra ý miễn lễ. Vương Nhược đứng dậy ngước nhìn Lý Thư Bạch, nhỏ nhẹ nói, “Đa tạ vương gia đích thân tới thăm hỏi, Vương Nhược cảm kích vô cùng. Thiết nghĩ cung Đại Minh canh phòng nghiêm ngặt, lại có bấy nhiêu binh lính của vương phủ cũng như cấm vệ quân ngày đêm bảo hộ, ắt không thể có sơ hở, xin vương gia cứ yên tâm.”
Miệng thì nói vậy song cặp mắt Vương Nhược nhìn Lý Thư Bạch vẫn mở to, lộ nét bi ai và kinh hãi như nai nhỏ đang run sợ, thậm chí còn toát ra vẻ bịn rịn khó tả. Hoàng Tử Hà có thể đoán được, nếu lúc này Lý Thư Bạch quả thực nghe theo lời Vương Nhược mà đi khỏi, hẳn nàng sẽ đau lòng thất vọng biết bao.
May sao Lý Thư Bạch chỉ mỉm cười bảo nàng, “Chắc chắn rồi, không phải lo gì nữa. Nàng về nghỉ đi, từ mai cứ yên lòng ở lại trong cung nhé.”
“Vâng.” Vương Nhược sửa lại vạt áo, vái lạy.
Rèm mi dày dài che khuất đôi mắt nàng, ánh đèn thoáng qua đáy mắt như sóng gợn, trong khoảnh khắc, Hoàng Tử Hà cứ ngỡ đó là giọt lệ.
Vương Nhược đứng dậy, xuôi tay đi vào nội điện, không nói thêm gì nữa.
Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn theo bóng nàng vòng qua giả sơn giữa cơn gió đêm lạnh lẽo, chậm rãi song không hề dừng lấy một bước. Đi đến cửa điện, dường như nàng có phần hoảng hốt, vô ý vấp phải ngưỡng cửa, Nhiễm Vân vội đỡ lấy nàng, giúp nàng nhấc cao xiêm lên.
Bấy giờ Lý Thư Bạch mới thôi nhìn theo, dặn dò, “Đã có bấy nhiêu người trông coi, vậy ta về phủ đây, nơi này giao cho ngươi trông chừng nhé.”
“Dạ.” Hoàng Tử Hà đáp, song vẫn nhìn vào điện. Chỉ thấy Nhàn Vân bưng hộp cơm đi thẳng ra nhà bếp đằng sau, Nhiễm Vân cầm đèn soi bên ngoài, vừa soi vừa lẩm bẩm gì đó.
Hoàng Tử Hà đứng bên kia hòn giả sơn hỏi với sang, “Cô đang tìm gì thế?”
Nhiễm Vân khum tay lên miệng làm loa, đáp thật to, “Cây trâm sương lá của vương phi không thấy đâu nữa!”
Hoàng Tử Hà liền vẫy vẫy tay với Lý Thư Bạch, “Tôi đi giúp họ tìm.”
Lý Thư Bạch không nói không rằng, chỉ đưa mắt nhìn theo bóng cô rảo bước đi ngang qua sân.
Hoàng Tử Hà băng qua hòn giả sơn, vừa nhìn đã thấy dưới đất có vật gì lấp lánh, hình dạng như gân lá, làm bằng vàng, ở giữa chạm rỗng, bên trên điểm xuyết hai viên trân châu như đôi giọt sương, chính là cây trâm vừa cài bên mai Vương Nhược.
Cô vội nhặt lên, đi đến đưa cho Nhiễm Vân.
Nhiễm Vân nhận lấy, cả hai cùng bước tới cửa điện thì thấy Nhàn Vân bưng hộp cơm quay lại, rầu rĩ mở ra cho họ xem, “Đầu bếp đã bị thanh lọc đuổi đi cả rồi, chỉ tìm thấy mấy miếng bánh trong tủ thôi, các người đã ăn tối chưa?”
“Ăn ăn ăn, chỉ biết ăn thôi, cô nhìn xem eo mình bao nhiêu rồi?” Nhiễm Vân giễu cợt.
Chương trước | Chương sau