Hôm sau, Hình bộ và Đại Lý Tự cùng thẩm vấn, đối chiếu hung khí, xác định rõ là thứ được dùng sát hại mấy người trong các vụ trước. Lại soát được trong khách điếm mà hung thủ trọ lại có kinh văn do hung thủ chép, so sánh với nét chữ để lại ở hiện trường, thấy thói quen cất bút hạ bút đều hoàn toàn phù hợp.
bạn đang xem “Trâm – Nữ Hoạn Quan ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!Hung phạm tự biết không thể chối cãi, đành thú nhận tất cả, cũng khai hết những tình tiết và nguyên do gây ra mấy vụ án kia. Từ đây, vụ án Bốn phương làm náo động cả kinh thành đã được phá giải.
Trong điện Tứ Thần cung Đại Minh, hoàng đế Lý Thôi gần đây khó ở liên miên, nghe được tin này cũng phấn chấn tinh thần, bèn sai người triệu các vương gia cùng Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm, Hình bộ thị lang Vương Lân vào gặp mặt.
"Thay quần áo, theo ta vào cung."
Hoàng Tử Hà vừa mạng xong chiếc chăn, chạy đến gác Ngữ Băng gặp Lý Thư Bạch thì nghe y nói vậy. Cô kinh ngạc hỏi lại, "Vào cung ư?"
"Ta từng nói, nếu trong vòng mười ngày ngươi phá được vụ án mới có tư cách giúp đỡ ta đấy thôi. Bởi thế từ ngày hôm nay, ta có một việc muốn ngươi làm thay ta, hơn nữa để làm việc này, cần phải cho ngươi một thân phận xác định." Nói đoạn y đứng dậy, phong thái nhàn tản tao nhã, chẳng có vẻ gì là đang đàm phán mặc cả, "Tóm lại, hiện giờ ngươi là một tiểu hoạn quan trong vương phủ này, những ngày quan trọng ta không đem ngươi theo, chẳng phải bớt đi mấy phần náo nhiệt hay sao?"
Cô cúi đầu "dạ" một tiếng.
Lý Thư Bạch ra cửa, bảo người đang đứng đó, "Gọi Cảnh Dục đến đây."
Chẳng mấy chốc Cảnh Dục đã đến, người này mặt mũi cực kỳ lanh lợi, đưa mắt đánh giá Hoàng Tử Hà mấy lượt rồi hỏi, "Vương gia có gì căn dặn?"
Lý Thư Bạch thong thả hỏi, "Ngươi quản lý nhân sự trong phủ, vậy ta hỏi, hiện giờ theo danh sách, trong phủ có bao nhiêu hoạn quan?"
"Tổng cộng là ba trăm sáu mươi bảy người."
"Nếu ba trăm sáu mươi bảy người đột nhiên biến thành ba trăm sáu mươi tám người thì sao?"
Cảnh Dục hiểu ý, lại liếc Hoàng Tử Hà, nghĩ ngợi rồi đáp, "Nô tài nhớ rồi, năm ngoái trong cung Cửu Thành gặp mưa bão, thất tán nhiều tiểu hoạn quan. Những hoạn quan ấy phần đông là trẻ mồ côi được đưa vào cung, có những kẻ chẳng tìm thấy xác, đến nay cũng không biết tăm tích."
Lý Thư Bạch gật đầu, "Nói vậy thì, có thể là một trong những hoạn quan thất lạc ở cung Cửu Thành?"
Cảnh Dục phụ họa, "Nô tài đoán vậy, nhưng cụ thể là ai thì chưa nhớ ra được, xin vương gia cho nô tài đi tra xét xem đã."
Lý Thư Bạch vẫy tay cho hắn lui ra. Chẳng bao lâu sau hắn bưng tới một cuốn danh sách dày cộp, thưa, "Nô tài đã tra được rồi, trong cung Cửu Thành có một tiểu hoạn quan, tên gọi Dương Sùng Cổ, phụ trách quét dọn gác Yên Lam. Tuổi chừng mười sáu mười bảy, thân hình cao năm thước năm tấc, gầy gò mảnh dẻ. Hắn là trẻ mồ côi được đưa vào cung, ở cung Cửu Thành cũng không có bạn bè, một thân một mình trong gác Yên Lam, bởi thế mọi người đều cho rằng hắn đã chết trong thiên tai năm ngoái, trong cung cũng xóa tên hắn rồi."
"Ồ, nào ngờ tên Dương Sùng Cổ này gặp nạn lớn không chết, lại lưu lạc đến vương phủ của ta." Lý Thư Bạch nhìn Hoàng Tử Hà, "Thân phận Cảnh Dục vừa nói, ngươi thấy thế nào?"
Hoàng Tử Hà đứng đó, lòng đầy cảm khái. Cô đã trốn chạy suốt mấy tháng trời, lặn lội trăm sông nghìn núi, ra sức che giấu thân phận, nào ngờ chỉ mấy câu ngắn ngủi của kẻ này đã đem lại cho cô một thân phận khác, trở thành một người khác, từ nay có thể quang minh chính đại xuất hiện trước mặt mọi người, không cần giấu giếm nữa.
Lời Quỳ vương Lý Thư Bạch nói ra, ai có thể nghi ngờ, mà ai dám nghi ngờ chứ?
Cô vội khom người hành lễ, "Nô tài Dương Sùng Cổ, đa tạ vương gia."
Từ cửa Kiến Phúc cung Đại Minh đi vào, băng qua lớp lớp cửa son và tường cao mới thấy điện Hàm Nguyên sừng sững, trên đài cao là cung sâu cửa khuyết(*), như phượng hoàng xòe cánh ôm lấy mọi người.
(*) Trước cung điện hoặc lăng miếu thời cổ đại thường có loại cổng hai tầng, hai bên là hai bục đá, phía trên là ngôi lầu, ở giữa bỏ trống làm lối đi, gọi là cửa khuyết.
Sau điện Hàm Nguyên là điện Tử Thần trang nghiêm hoa lệ, phía sau điện, mái cong đấu củng(*) vàng son lộng lẫy trải dài liên miên bất tuyệt, nhìn hút tầm mắt.
(*) Một loại kết cấu đặc biệt trong kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
Điện Tử Thần là nội điện, mấy năm nay hoàng đế ít khi triệu kiến quần thần ở điện Hàm Nguyên, đa phần đều chỉ ở điện Tử Thần. Hoàng Tử Hà chờ không lâu đã thấy hoàng đế vận thường phục đen bước ra cùng các hoạn quan theo hầu, thân hình hơi đẫy đà nhưng không béo phị, cằm tròn trịa, mắt dài, dáng vẻ thân thiện.
Hoàng đế Lý Thôi năm nay mới ba mươi lăm tuổi, mười năm trước được bè lũ hoạn quan ủng hộ mà đăng cơ, từ đó chỉ mải mê nữ sắc, không màng triều chính. Nếu nói là một thiên tử thái bình thì hơi gượng ép, song không làm gì ảnh hưởng đến dân chúng, trăm họ cũng được coi như yên ổn.
Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, cùng một dòng máu mà trông hoàng đế ôn hòa hơn Lý Thư Bạch nhiều. Lại nhìn sang bọn Lý Nhuế, thầm nhủ, có vẻ tất cả đều dễ đối phó hơn Lý Thư Bạch, tại sao hết lần này đến lần khác người duy nhất có thể giúp mình lại chỉ là y.
Hoàng đế yên vị, đoạn tươi cười khen Lý Thư Bạch, "Tứ đệ xưa nay quả thực không chùn bước trước bất cứ việc gì. Vụ án Bốn phương này, mấy hôm trước trẫm còn nghĩ chẳng biết có nên nhờ Tứ đệ xử lý không, nào ngờ chưa kịp mở miệng thì tối qua đệ đã giải quyết xong, quả là thần tốc."
Lý Thư Bạch đáp, "Đây không phải công lao của thần đệ, phá án được là nhờ kẻ khác."
Ánh mắt hoàng đế dừng lại ở Thôi Thuần Trạm, hắn vội khom lưng sợ sệt tâu, "Án này phá được đều là nhờ Quỳ vương. Chúng thần có tội, chỉ lo tuần tra bên Đông thành, không nghe Quỳ vương chỉ thị, để Quỳ vương phải một mình đến hiện trường bắt giữ hung thủ, phá án."
Bấy giờ ánh mắt hoàng đế mới dừng lại ở Hoàng Tử Hà đang đứng sau lưng Lý Thư Bạch, "Tiểu hoạn quan sau lưng Tứ đệ, hình như trẫm chưa gặp bao giờ?"
"Khởi bẩm bệ hạ, đây chính là người phá được vụ án, bởi thế thần không dám tham công, bèn dẫn hắn lên điện diện thánh."
Nghe vậy, mọi người đều kinh ngạc đổ dồn mắt vào Hoàng Tử Hà, chỉ thấy tiểu hoạn quan này dung mạo hết sức thanh tú, trước sau vẫn cụp mắt nhìn xuống, nét mặt bình thản, một sợi tóc cũng không mảy may rung động.
Hoàng đế cười, "Đây là nội điện, hằng ngày trẫm cùng mọi người tùy tiện đã quen. Ngươi xem, ở đây hôm nay ngoài các tiểu đệ của trẫm cũng chỉ có Thuần Trạm điệt nhi của Thôi thái phi, Vương thượng thư thúc phụ của hoàng hậu, nhà ngươi cũng không cần gò bó quá. Ngươi tên gì?"
"Nô tài Dương Sùng Cổ, khấu kiến bệ hạ." Cô bước lên quỳ xuống hành lễ.
Khang vương Lý Vấn còn trẻ, thấy cô xấp xỉ tuổi mình, liền bước ra gặng hỏi, "Ngươi đã phá được án đấy ư? Ta đang nghĩ mãi không ra, ngươi mau nói cho ta biết, vụ án này có phải án Bốn phương không? Tại sao ba phía Nam, Tây, Bắc đều xảy ra án mạng, vậy mà vụ án cuối cùng lại không phải ở phía Đông?"
Hoàng Tử Hà ngẩng lên nhìn hoàng đế, thấy người gật đầu mới giải thích, "Đây chỉ là do quán tính tư duy của mọi người, kết hợp với cái gọi là bốn phương bồ đề 'Thường Lạc Ngã Tịnh', lại thấy án mạng xảy ra tại ba phía Bắc, Nam, Tây của kinh thành, liền cho rằng quy luật giết người của hung thủ là Đông Tây Nam Bắc. Ngờ đâu hung thủ giết người chỉ mượn tiếng như vậy, chứ không làm theo quy luật đó. Thực ra, người thứ ba bị giết vốn ở phương Thường An phía Tây Nam thành, chứ không phải hướng chính Tây. Bởi vậy nô tài nghĩ, nếu lần theo hướng 'bốn phương', có thể sẽ bị chệch hướng."
Chiêu vương Lý Nhuế liền hỏi, "Ta nghe nói, ngày đầu tiên hai người đã xác định mục tiêu ra tay của hung thủ ở phía Đông Nam kinh thành, sang ngày thứ hai lại xác định ở phường Phổ Ninh phía Tây Bắc kinh thành là vì sao?"
"Vụ án này muôn đầu nghìn mối, đều phải bắt nguồn từ câu pháp ngôn Trang Chân pháp sư đọc nhầm kia." Hoàng Tử Hà giải thích cặn kẽ, "Hôm ấy trong cung Kiến Bật, nô tài nghe các vị vương gia kể lại tình tiết vụ án, Trang Chân pháp sư giảng kinh trong đại lễ Vu Lan, hẳn là trôi chảy lưu loát, hệt như âm thanh trên trời truyền xuống, vậy mà hung thủ chỉ thoáng nghe đã nhận ra một chữ đọc sai trong cả bài giảng kinh, nếu không phải người trong cửa Phật thì nhất định cũng là Phật tử thông thuộc kinh điển Phật gia. Kinh thành có lệnh giới nghiêm, nên nếu muốn giết người ở các nơi khác nhau thì vào ngày hành sự phải nghỉ trọ tại nơi đó, quanh địa điểm xảy ra ba vụ án đầu lại không có chùa miếu gì cả, nếu một hòa thượng trọ lại nhất định sẽ khiến người ta chú ý, vì thế nhiều khả năng kẻ gây án là Phật tử. Huống hồ kẻ này tàn sát nhiều, nhất định không phải kẻ quy Phật chân chính, hẳn là bị những thứ bàng môn tà đạo trong dân gian mê hoặc mà thôi. Người mê tín, tất có điều tin tưởng. Cứ theo những vụ án trước thì án này không phải dựa theo bốn phương tám hướng như lời đồn, nghĩ vậy, nô tài lại nhớ ra, những người mê tín thường có một thói quen, chính là làm việc gì cũng xem lịch."
Bởi vậy sau khi xem hoàng lịch, cô phát hiện địa điểm ra tay của hung thủ hoàn toàn trùng khớp với hướng tốt trong ngày đó được ghi trên lịch, vào ngày xảy ra vụ án thứ ba, lịch chép rằng hướng Tây Nam là đại lợi, lại lật đến hai ngày xảy ra hai vụ án trước thấy một ngày có hướng đại lợi là chính Bắc, ngày kia có hướng đại lợi chính Nam, trùng khớp với phương hướng giết người của hung thủ. Bởi thế cô đoán rằng hung thủ giết người nhất định lấy lịch làm chuẩn chứ không phải như mọi người suy đoán là mỗi phương giết một mạng.
Thấy cô lật xem hoàng lịch, Lý Thư Bạch cũng chú ý ngay tới điểm này, bởi thế vào ngày có hướng đại lợi Tây Bắc, hai người mới cùng mai phục trước cửa nhà một thai phụ ở phường Phổ Ninh, ôm cây đợi thỏ.
"Té ra là thế!" Lý Vấn lại hỏi, "Vậy tại sao ngươi biết hung thủ chắc chắn sẽ ra tay với nhà đó? Sao biết được mục tiêu lần này nhất định là thai phụ?"
"Vì ba người bị giết trước kia, một là ông lão canh đêm đã già cả, một là thợ rèn trung niên, hai người này bị giết cũng khỏi bàn, nhưng đứa nhỏ trong nhà từ thiện đã yếu ớt suy kiệt, lại đang hấp hối, dù không giết thì cũng chẳng sống nổi mấy canh giờ, tại sao hung thủ còn giết nó?" Nói đoạn, Hoàng Tử Hà hơi ngập ngừng rồi tiếp, "Sau đó, nô tài chú ý đến một việc, chính là người thợ rèn trung niên kia, ông ta bị giết ở tiệm thuốc, nói cách khác ông ta đang trên đường tới hiệu thuốc khám bệnh thì bị giết."
Lý Vấn còn đang ngẫm nghĩ, Lý Nhuận ở bên cạnh tay cầm ly rượu đã thở dài, "Bốn nỗi khổ của đời người, sinh lão bệnh tử."
"Chính là vậy. Một già, một bệnh, một chết. Giờ chỉ còn duy nhất một chữ sinh, mà thai phụ kia chính là người duy nhất ở phía Tây Bắc thành Trường An sắp sửa lâm bồn, nếu hung thủ muốn ra tay trong ngày đó thì chỉ có thể nhắm vào mục tiêu ấy mà thôi. Huống hồ chi lẻn vào giết người, hắn lại vừa khéo gặp lúc sản phụ lâm bồn, mừng rỡ vô cùng, còn ngỡ rằng trời cao đang giúp mình hoàn thành nốt chữ 'sinh' này." Thôi Thuần Trạm than thở, "Đại Lý Tự và Hình bộ cùng thẩm vấn, đương sự đã thú nhận tất cả, thì ra cả nhà hắn gặp nạn, trong một tháng chết sạch chỉ còn mình hắn. Hắn lo sợ đau buồn, rồi đem lòng tin theo một giáo phái từ Tây Vực truyền sang. Ở Tây Vực giáo phái này cũng bị chửi rủa xua đuổi, nào ngờ lại truyền vào Trung nguyên, giáo luật của chúng có một loại tà pháp, nói rằng tai ách có thể truyền sang cho người khác, lửa tà bốc lên, hắn bèn mù quáng tin theo tà pháp này, cho rằng chỉ cần giết được bốn người thì bản thân có thể vượt qua tứ khổ, từ nay về sau tiêu dao tự tại, không bệnh không nạn. Hiện giờ hắn đã bị nhốt vào ngục song vẫn u mê mù quáng, làm loạn cả lên, còn nói mình dùng kinh Phật độ mình độ người. Đúng là đến chết vẫn không hối cải!"
Trong điện im phăng phắc, hoàng đế vẫy tay nói, "Trẫm thấy cũng chẳng cần đợi sang mùa thu(*) đâu. Đã khai nhận tất cả, lại có vật chứng đầy đủ, hạng người tội ác tày trời này còn giữ lại làm gì? Trong mấy ngày nay, các ngươi xem xét xử lý cho xong đi, để cho hắn khỏi kêu gào làm loạn nữa."
(*) Thời phong kiến, mùa thu và đông thường là mùa thực hiện án tử hình trong năm.
"Vụ này đã được khép vào tội chết, chẳng hay ý bệ hạ thế nào?"
"Chém ngang lưng đi."
Vụ huyết án náo động kinh thành suốt mấy tháng nay thế là hạ màn. Mọi người điểm lại mấy vụ thảm án, lại nhìn tiểu hoạn quan mảnh khảnh mới mười sáu mười bảy chẳng khác nào nhành liễu đầu xuân đang đứng trước mặt. Nhưng chính thiếu niên yếu ớt này lại khéo léo rút ra được manh mối đầu tiên từ mớ bòng bong rối bời mà tất cả đã bó tay, tỉ mỉ xem xét đến mọi mạch suy nghĩ. Càng nghĩ càng thấy lòng dấy lên một cảm xúc khó tả.
Lý Nhuế đùa, "Tên tiểu hoạn quan này thực là thông minh lanh lợi, hèn chi lần trước đệ xin, Tứ ca lại không nỡ gật đầu."
Lý Thư Bạch cười đáp, "Cửu đệ nói bừa, bấy giờ ta nào có nói chữ 'không' đâu."
"Đúng vậy, đệ làm chứng cho Tứ ca." Lý Vấn cũng chen vào.
Hoàng đế rất vui, chỉ cười cười ngồi xem các em đấu khẩu, mãi tới khi nữ quan từ phía sau ghé tai nói nhỏ, hoàng đế mới xen vào, "Tứ đệ gần đây song hỉ lâm môn, nên trẫm sẽ bày tiệc nhà ăn mừng trước. Đợi hôm đại hỉ của đệ, trẫm và hoàng hậu sẽ đích thân đến vương phủ chúc mừng."
Cả đám nghe nói đều lộ vẻ thích thú, Khang vương Lý Vấn hỏi đầu tiên, "Tứ ca đã chọn được vương phi rồi ư? Là cô nương nhà nào vậy?"
Hoàng đế cười, "Chỉ ít hôm nữa là kim thư ngọc sách ban ra rồi, các đệ gắng đợi thêm mấy ngày được không? Nói chung thì vương phi của Tứ đệ đương nhiên là danh môn khuê tú thuộc hàng nhất nhì trong thiên hạ, sánh với Tứ đệ quả là một đôi người ngọc."
Yến tiệc giữa ngày xuân, cả đám trong cung chuốc chén đổi bát, mãi đến khi mặt trời ngả về Tây mới lục tục ra về.
Hoàng Tử Hà theo xe ngựa ra khỏi cửa cung, vừa thở phào nhẹ nhõm thì Lý Thư Bạch vén rèm gọi, "Lên đây!"
Cô bất đắc dĩ lên xe, thấy y chỉ liếc mình rồi lại dõi mắt ra ngoài cửa sổ. Nhìn qua song cửa chạm trổ mây trôi phúc lành, cô thấy cảnh đường phố chầm chậm lướt đi không khác chi ngày thường.
Vẫn không quay mặt lại, Lý Thư Bạch nói thẳng vào đề, "Giờ ta muốn nghe thử vụ án của gia đình ngươi."
Hoàng Tử Hà thoáng sững sờ, hỏi khẽ, "Vương gia chịu can thiệp vào vụ án này thực ư?"
"Lời ta đã nói, lẽ nào ngươi cho rằng ta sẽ nuốt lời?" Y hững hờ đáp, nhưng thái độ rõ ràng là ngươi-có-kể-hay-không-thì-bảo.
Hoàng Tử Hà cắn môi dưới, hồi lâu mới ngồi xuống chiếc ghế đối diện y, chần chừ kể, "Mọi chuyện phải bắt đầu từ một ngày trước khi vụ án xảy ra. Hôm ấy trời quang đãng, hoa mai nở đầy trong vườn nhà, tôi cùng Vũ Tuyên lội tuyết bẻ mai, quả là một ngày đông đẹp hiếm hoi…"
Lý Thư Bạch vẫn nhìn cảnh phố xá đang từ từ trôi qua ngoài cửa, "Vũ Tuyên là ai?"
"Là… một đứa trẻ mồ côi được cha tôi thu nhận sau khi đến Thục quận. Mười tám tuổi đã đỗ tú tài, có nhà riêng trong quận, nhưng vẫn thường tới thăm hỏi cha mẹ tôi."
Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn, thấy nét mặt Hoàng Tử Hà có phần khác lạ, khuôn mặt tái nhợt vì bôn ba và lo nghĩ nhiều ngày lại từ từ ửng lên ánh hồng rất kín đáo, khiến thần thái cả người trở nên khác hẳn.
Vũ Tuyên chắc là thanh mai trúc mã đây.
Y lại đưa mắt nhìn ra ngoài song cửa, vẻ mặt vẫn bình thản, chỉ hờ hững "ừm" một tiếng.
Hoàng Tử Hà thấy y không gặng hỏi, lòng cũng thầm nhẹ nhõm. Cô hít một hơi thật sâu, tiếp tục kể lại cái ngày đã trôi qua được mấy tháng, song vẫn khắc sâu trong lòng cô.
Sáng sớm hôm ấy đổ tuyết nhỏ, sau khi tuyết lạnh trời quang, màu trắng càng tôn lên sắc mai đỏ, cả thế giới như làm bằng pha lê, trong trẻo sáng rỡ.
Hoàng Tử Hà ôm một bó mai lớn vào lòng, cười khanh khách chìa cho Vũ Tuyên xem. Vũ Tuyên nói, "Hôm trước ta thấy một đôi bình mai, sắc xanh trứng sáo như bầu trời sau mưa, cảm thấy nếu đặt trong phòng muội thì quá tuyệt nên đã mua về, thế mà hôm nay lại quên đem qua, để đến chiều sẽ sai người đưa tới."
Cô tươi cười gật đầu, ngày lành cảnh đẹp, nắm tay nhìn nhau, vậy mà ngày đông đẹp đẽ nhường này lại bị chuyến viếng thăm của hai vị khách phá hỏng.
Phụ thân bước vào, theo sau là tổ mẫu và thúc phụ cô. Hoàng Tử Hà vừa trông thấy đã reo lên, ném cả bó hoa mai cho Vũ Tuyên rồi chạy đến ôm chặt lấy tổ mẫu.
Từ nhỏ cô đã được bà cưng chiều nên tình cảm rất thân thiết. Vũ Tuyên thấy vậy liền cáo từ, bà lão cũng chỉ mỉm cười nhìn gã, đợi gã đi rồi, Hoàng Tử Hà mới nghe thấy bà khẽ thở dài.
Hai bà con dắt tay nhau vào phòng mẹ cô trò chuyện, mẹ cô cười nói, "Lần này tổ mẫu và thúc phụ sang đây là vì hôn sự của con đấy."
Hôn sự. Hoàng Tử Hà lặng lẽ buông tay tổ mẫu ra, ngồi xuống làm thinh. Bà lão bất đắc dĩ vỗ nhẹ lên tay cô, cười nói, "Nhà họ Vương là danh gia vọng tộc. Vương Uẩn lại là cháu đích tôn ngành trưởng, huống hồ cha con đã từng gặp qua, luôn miệng ca ngợi Vương Uẩn tướng mạo nhân phẩm đều tuyệt hảo, con gả sang đó, nhất định sẽ suôn sẻ như ý."
Mẹ rầu rĩ nhìn cô, đoạn khẽ thưa với bà, "Mẹ không biết đâu, con bé này chẳng biết tâm ý thế nào, hễ nghe nhắc đến nhà họ Vương là tỏ ý không vui."
"Nó thẹn đấy mà." Bà lão cười.
Hoàng Tử Hà nén giận, đang định lên tiếng phân bua thì a hoàn lại tới mời đi dùng cơm tối. Mọi người liền đứng dậy ra gian ngoài dùng cơm, Hoàng Tuấn thúc phụ cô vừa thấy bèn cười nói, "Tử Hà, sau này thành con dâu nhà người ta rồi, đến giờ cơm không được lề mề tới trễ thế này đâu, phải dọn sẵn cơm đợi cha mẹ chồng đó."
Cha cô cũng cười theo, "Vương Uẩn một mình ở trong kinh, lấy đâu ra cha mẹ chồng mà hầu hạ? Sang xuân Tử Hà xuất giá, cũng như ở nhà thế này thôi."
Hoàng Tử Hà sững người, đặt bát xuống hỏi, "Sang xuân ư?"
Mẹ cô tức thì đưa mắt ra hiệu cho cha, rồi bảo cô, "Đúng thế, tổ mẫu và thúc thúc con tới thăm lần này chính là để bàn bạc xem có phải sang xuân sẽ cho con xuất giá hay không, vừa khéo nhà họ Vương cũng có ý này…"
"Thực ra mọi người đã quyết định rồi, đúng không?" Hoàng Tử Hà đứng bật dậy, giận đến run người, "Cha, mẹ, con đã xin thoái thác đám này, nhưng hai người… giờ lại ép gả con đến nhà họ Vương!"
"Con bé này rõ là vô lý." Hoàng Tuấn đã bàn bạc với nhà họ Vương, giờ lại thấy cô nói như vậy, không nén được cơn giận, buông đũa xuống sầm mặt mắng, "Họ Vương Lang Gia là vọng tộc từ mấy trăm năm nay, hai vị hoàng hậu họ Vương tiền nhiệm và đương nhiệm của bệ hạ đều xuất thân từ nhà họ, con tưởng cuộc hôn nhân này nói hủy là hủy được sao? Con vào được nhà họ Vương là phúc đức tổ tiên đấy, còn không mau chuẩn bị của hồi môn đi!"
Cha cô cũng thở dài, "Tử Hà, cuộc hôn nhân này được tổ phụ con ước định lúc còn làm tể tướng đương triều, giờ tuy nhà ta đã suy vi, song nhà họ Vương cũng chưa từng chê bỏ, có thể thấy họ quả thực ưng con. Con theo Vương Uẩn là tốt đấy, ta đã gặp rồi, nhân phẩm tướng mạo đều thuộc hạng nhất, không thua kém ai đâu."
"Nhưng con thích người khác, không thích Vương Uẩn!"
Hoàng Ngạn đại ca cô từ nãy vẫn cắm cúi ăn, giờ mới ngẩng đầu lên, đổ thêm dầu vào lửa, "Hay lắm, không ưng nhà họ Vương à, đợi muội hại chết cả nhà thì tha hồ hủy hôn."
Hoàng Tử Hà thấy đầu lạnh buốt đi, cô dằn mạnh bát xuống, tay run lên bần bật, không cầm nổi bát đũa nữa, chén canh tức thì chao nghiêng, rơi từ trên bàn xuống đất vỡ tan.
Nước canh bắn hết lên gấu quần Hoàng tổ mẫu, khiến bà bất đắc dĩ phải đứng lên gọi a hoàn lại lau, than rằng, "Con bé này, càng lớn tính tình càng khó chịu."
Hoàng Tử Hà chỉ thấy mắt cay sè, nước mắt sắp tràn ra tới nơi, đành bưng mặt quay lưng chạy thẳng vào phòng òa khóc. Chẳng rõ đã khóc bao lâu, chỉ thấy một đôi tay mềm mại đặt lên vai, rồi giọng dịu dàng của mẹ vang lên bên tai, "Tử Hà, đừng vùng vằng khóc lóc như thế, chuyện này… ta và cha con cũng đang thương lượng. Nếu con cương quyết phản đối thì chúng ta cũng đành chịu, dù đắc tội với nhà họ Vương cũng quyết không để con khổ sở dằn vặt đâu."
Chương trước | Chương sau