Nghĩ đoạn, Trương-Siêu-Trọng liền để hết tâm trí quan sát Dư-Ngư-Đồng. Dưới ánh nắng, ống sáo vàng phản chiếu rực rỡ, khi thì giống một đoản kiếm, lúc lại như một ngọn thương, lại có khi được dùng như một phán quan bút để điểm huyệt nữa... Quan sát tỉ mỉ một hồi, Trương-Siêu-Trọng bỗng giật mình vì phát hiện được Dư-Ngư-Đồng đang sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật, một tuyệt kỹ của phái Võ-Đang.
bạn đang xem “Thư kiếm ân cừu lục - Kim Dung” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!
Nhu-Vân Kiếm-Thuật nổi tiếng là đệ nhất kiếm pháp trên giang hồ, không gì sánh nổi, kể cả Thanh-Thành Kiếm-Pháp. Nhu-Vân Kiếm-Thuật không những không truyền cho người ngoài, mà ngay cả chính trong môn phái Võ-Đang cũng chỉ truyền cho những cao đồ luyện được đến mức lô hỏa tuyệt luân mà thôi. Sư-phụ của Trương-Siêu-Trọng năm xưa chỉ truyền lại cho chính ông ta cùng đại sư huynh Mã-Chân và nhị sư huynh Lục-Phỉ-Thanh chứ không truyền cho các đệ tử khác.
Hơn 20 năm đi lại trên giang hồ, Trương-Siêu-Trọng không truyền tuyệt kỹ này lại cho bất cứ một đệ tử nào, mà cũng chưa thấy ai sử dụng nó ngoài hai sư huynh trong phái Võ-Đang của mình. Chỉ mới cách đây mấy ngày, ông gặp một gã thanh niên sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật, hỏi hắn thì hắn nhận là đồ đệ của sư huynh Mã-Chân của ông ta. Bảo hắn dùng lễ sư điệt mà ra mắt thì hắn đã chẳng chịu nghe còn quấy phá chọc ông ta nhiều phen đến điên cả đầu!
Giờ đây, Trương-Siêu-Trọng lại được chứng kiến thêm một người sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật. Căn cứ vào lối sử dụng của cả hai người, Trương-Siêu-Trọng biết chắc chắn rằng cả hai đều được chân truyền chứ không phải là học lóm. Và như thế có nghĩa là cả hai người nếu không phải là đệ tử của đại sư huynh Mã-Chân thì là đệ tử của nhị sư huynh Lục-Phỉ-Thanh mà thôi chứ không chạy vào đâu được! Mà hai người đã là đệ tử của một trong hai sư huynh mình thì đương nhiên là sư điệt phải gọi ông ta là sư thúc rồi, không còn gì để chối cãi nữa! Ấy vậy mà không hiểu sao cả hai người đều ra mặt chống đối với ông ta mãi! Ông là vai sư thúc, nhưng hai người kia đã không nể mặt thì chớ, lại còn căm thù và vô lễ với ông ta là nghĩa làm sao?
Nhìn Dư-Ngư-Đồng dùng ống sáo vàng sử dụng Nhu-Vân Kiếm-Thuật, Trương-Siêu-Trọng bỗng nhớ lại lời sư phụ năm xưa dặn riêng với ông ta cùng hai vị sư huynh rằng:
-Ba con không được đem Nhu-Vân Kiếm-Thuật mà truyền lại cho bất cứ một người nào nếu người ấy không phải là đệ tử chịu tuyên thệ trọn đời trung thành với phái Võ-Đang của chúng ta, bất luận đó là người chí thân hay là người mà các con chịu hàm ân nặng đi chăng nữa! Tuyệt kỹ này chỉ có thể truyền cho người nào có trìng độ cao, suốt đời tận tụy, vì môn phái có thể hy sinh tất cả tiền tài danh vọng, thậm chí đến cả mạng sống của mình nữa. Tình cảm không thể nào chi phối kỷ luật và tôn chỉ của môn phái được. Sư-phụ chờ đến hôm nay mới truyền lại cho ba con là vì các con đã qua cơn trui mài và thử thách kỹ, và ba con đã bằng lòng tuyên thệ sẽ trung thành và sẵn sàng hy sinh cho môn phái. Truyền xong môn Nhu-Vân Kiếm-Thuật này tức là thầy đã dạy tất cả học nghệ của thầy lại cho các con rồi mà không giữ lại bất cứ một chiêu nào cả.
Trương-Siêu-Trọng lẩm bẩm một mình:
-"Lời sư-phụ dặn vẫn còn rành rành trong trí của ta. Chẳng hiểu Mã đại sư huynh còn nhớ chăng? Ta tin chắc đại sư huynh nhớ rất kỹ và không khinh xuất bạ ai cũng dạy đâu. Nếu cả hai người trẻ ấy là học trò cưng của Mã đại sư huynh thì chắc chắc cả hai đã lập lời trọng thệ trung thành tuyệt đối với phái Võ-Đang ta rồi thì trước sau cũng phải nhìn nhận ta là sư thúc. Nhưng ta chỉ lo Lục nhị sư huynh mà thôi. Y đã đoạn tình đồng môn với ta, thì cũng rất có thể xem thường lời thầy dặn mà phản bội môn phái để đi theo đường hướng của mình. Trường hợp như thế thì..."
Trương-Siêu-Trọng đang nghĩ vơ vẩn thì chợt nhìn thấy Dư-Ngư-Đồng thi triển một chiêu trong Nhu-Vân Kiếm-Thuật đánh hạ một cao thủ của mình. Trương-Siêu-Trọng bất giác phải giật mình. Ngoài ông ta và hai sư huynh đồng môn ra, theo ông được biết thì không có một đệ tử Võ-Đang nào biết sử dụng tuyệt kỹ của môn phái đến bậc này. Mới từng ấy tuổi mà chàng thư sinh kia đã luyện được Nhu-Vân Kiếm-Thuật đến mứ lô hỏa tuyệt hồng! Nếu cứ theo đà này mà phát triển thì một ngày nào đó, tài nghệ chàng thư-sinh này sẽ vượt qua tất cả các trưởng bối Võ-Đang hiện tại.
Trương-Siêu-Trọng định lên tiếng hỏi xem Dư-Ngư-Đồng là đệ tử của vị sư huynh nào của mình thì lại thấy chàng phối hợp Nhu-Vân Kiếm-Thuật của Võ-Đang với Bạch-Vân Thương Cẩu của phái Không-Động thành một chiêu thế vô cùng bí hiểm mà chỉ có những cao thủ thượng thặng trên giang hồ mới có khả năng làm được mà thôi. Trương-Siêu-Trọng không dằn được, phải cất lên tiếng khen:
-Hảo chiêu!
Khen xong, Trương-Siêu-Trọng lại chăm chú quan sát từng cử động nhỏ một của Dư-Ngư-Đồng. Bản lãnh chàng trai trẻ tuổi giống thư sinh hơn là dũng sĩ kia thật là vượt ngoài sức tưởng tượng của viên Thống-Chế Ngự-Lâm-Quân!
Dư-Ngư-Đồng lúc ấy đánh bạt dần đám người kia dang ra xa. Thành-Khoán bị chàng dùng ống sáo vàng điểm huyệt vào ngay hông; Đoàn-Đại-Lân bị điểm trúng ngay bắp chân; và Ngân-Bá-Càn bị điểm vào ngay cánh tay. Thủ pháp của Dư-Ngư-Đồng quá lẹ làng và thần tốc khiến ba cao thủ không biết đâu mà lường nổi, lần lượt bị hã từng người một. Những cao thủ khác vì quá sợ nên chỉ vừa chống đỡ vừa thối lui dần đến trước nỗi có vài người suýt ngã xuống hầm.
Trương-Siêu-Trọng thấy đã đến lúc chính mình phải ra tay nên tuốt thanh bảo kiếm ra xông tới đứng trước ba cao thủ vừa thọ thương dưới tay Dư-Ngư-Đồng. Trương-Siêu-Trọng định dùng Nhu-Vân Kiếm-Thuật đấu với Dư-Ngư-Đồng, nhưng mũi kiếm của ông ta vừa đâm tới, Dư-Ngư-Đồng đã nhảy vụt một cái xuống dưới hầm.
Chuyện xảy ra quá đột ngột làm cho tất cả mọi người phải chưng hửng, không hiểu thế nào đâu ra đâu cả! Nhưng điều làm mọi người kinh ngạc hơn cả là rõ ràng không phải Dư-Ngư-Đồng vì thất thế mà nhảy xuống dưới hầm trốn. Chàng đang thắng thế, áp đảo được các thủ hạ của Trương-Siêu-Trọng, lại đả thương liên tiếp ba cao thủ và làm cho những người khác phải điêu đứng. Nếu bảo rằng Dư-Ngư-Đồng vì giao chiến đã lâu nên có phần mệt mỏi phải nghỉ tay thì lại càng vô lý. Lạc-Băng đã bị ngã xuống dưới hầm, loại ra khỏi vòng chiến. Đây là lúc Văn-Thái-Lai cần Dư-Ngư-Đồng hơn bao giờ hết. Mà con người của Dư-Ngư-Đồng như tất cả đã biết qua là người trượng nghĩa chứ không phải phường giá áo túi cơm tham sống sợ chết, gặp nguy hiểm thì một mình trốn chạy. Khi nãy, nhảy lên trợ lực Văn-Thái-Lai là do chàng tự ý, bây giờ nhảy xuống hầm cũng không phải do ai hay bị ai bắt buộc.
Số là Dư-Ngư-Đồng trong khi đang kịch chiến với đám cao thủ triều đình vẫn luôn luôn để ý đến Văn-Thái-Lai và Lạc-Băng. Thấy hai người giữ được thế quân bình, chàng cũng hơi yên tâm mà tiếp tục giao phong. Nhưng khi nhìn thấy Trương-Siêu-Trọng nhảy vào thì chàng biết rõ cán cân đã chênh lệch hẳn. Chàng định lên tiếng báo cho Lạc-Băng biết mà đề phòng vì rất có thể Trương-Siêu-Trọng dùng đến Phù-Dung châm thì thật là hết sức nguy hiểm cho tánh mạng của nàng. Nhưng ba cao thủ Thành-Khoán, Đoàn-Đại-Lân và Ngân-Bá-Càn tấn công ráo riết làm Dư-Ngư-Đồng bắt buộc phải cố sức mà chống đỡ chứ không làm gì hơn được. Chàng vừa đánh mà trong lòng lại rối như tơ vò, hết sức lo lắng cho Lạc-Băng. Đến khi Lạc-Băng bị Trương-Siêu-Trọng đánh văng xuống hầm, Dư-Ngư-Đồng đau lòng đến và tức giận đến mức nộ khí xung thiên. Nhưng không ngờ trong cơn giận đó lại khiến cho chàng nảy sinh ra một luồng dũng khí lạ thường và có lẽ do bản năng sinh tồn thúc giục nên vô tình chàng tự nghĩ ra cách phối hợp Nhu-Vân Kiếm-Thuật của Võ-Đang và Bạch-Vân Thương-Cẩu của Không-Động. Nhờ lối đánh mới lạ đó mà Dư-Ngư-Đồng trong một lúc liên tiếp hạ được ba cao thủ thật nhanh chóng, đến luôn cả chàng cũng không ngờ tới. Hạ xong ba cao thủ, thay vì nhảy đến sát cánh với Văn-Thái-Lai thì Dư-Ngư-Đồng chẳng nói chẳng rằng nhảy ngay xuống hầm, có lẽ là để xem xét Lạc-Băng ra sao, có bị thương tích hay nguy hiểm đến tánh mạng hay không. Cũng trong lúc đó, Trương-Siêu-Trọng nhảy vào định quyết đấu với Dư-Ngư-Đồng một phen thì bóng chàng đã mất hút.
Trương-Siêu-Trọng cùng đồng bọn hết sức ngạc nhiên về hành động khác thường của Dư-Ngư-Đồng. Ít nhiều, ai ai cũng hiểu rằng theo luật của Hồng Hoa Hội thì người vai vế thấp khi gặp lúc sinh tử luôn luôn có nhiệm vụ phải bảo vệ cho người vai vế trên mình, cho dù phải hy sinh cả tánh mạng. Trong trường hợp này, cả Dư-Ngư-Đồng lẫn Lạc-Băng đều có trách nhiệm phải bảo vệ cho Văn-Thái-Lai đến cùng. Cho dù Lạc-Băng có bỏ mình dưới tay của Trương-Siêu-Trọng đi chăng nữa, Dư-Ngư-Đồng vẫn phải tiếp tục phải chiến đấu để bảo vệ cho Văn-Thái-Lai. Nếu nói rằng đây là bước đường cùng thì ai muốn giết Văn-Thái-Lai bắt buộc phải bước qua xác của Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng trước đã. Vì vậy, hành động của Dư-Ngư-Đồng như thế thật là trái ngược hẳn với kỷ-luật và đạo-nghĩa của Hồng Hoa Hội...
Chân của Dư-Ngư-Đồng vừa chạm xuống đật dưới đáy hầm thì Lạc-Băng cũng vừa tỉnh lại, đang lồm cồm gượng ngồi dậy dù các vết thương hành nàng dữ dội, đau rần hết cả người. Dư-Ngư-Đồng mừng quá chạy lại đỡ Lạc-Băng vào người chàng đỡ dậy, miệng không ngớt hỏi thăm:
-Tứ tẩu có sao không? Có bị thương gì không? Em lo sợ quá! Nay thấy chị còn bảo toàn được tánh mạng thật em không còn gì vui hơn!
Dư-Ngư-Đồng không ngăn được nỗi cảm xúc, nước mắt của chàng nhỏ xuống như mưa lên trên hai gò má của Lạc-Băng trong lúc nàng ngước mặt lên nhìn vào đôi mắt chứa chan bao ý nghĩ của chàng. Nàng có vẻ thương hại Kim-Địch Tú Tài hơn là cảm kích chàng nên vừa dịu dàng đồng thời lại vừa nghiêm nghị nói:
-Chị chẳng làm sao cả. Em đừng lo cho chị! Mau lên mà tiếp sức, cứu nguy cho Văn tứ ca!
Dư-Ngư-Đồng nói:
-Em đỡ chị lên trên cùng quyết một trận cuối với chúng. Một là cứu được Văn tứ ca, hai là cùng chết chung với nhau... một chỗ!
Nói về Văn-Thái-Lai, từ lúc thấy vợ mình bị đánh văng xuống hầm thì uất khí nổi lên tận trời, hận mình không thể cứu kịp, mà cũng không biết nàng có bị thương hay không, sống chết ra sao cả. Chàng lồng lộn lên như một con thú dữ, dồn hết sức vào sợi dây thừng gặp đâu quất đấy, quyết giết chết đối phương không nương tình. Nếu không phải vì Trương-Siêu-Trọng dùng kiếm đỡ gạt sợi dây thừng của Văn-Thái-Lai ắt phải có ít nhất vài người mất mạng dưới những chiêu thức mạnh như vũ bão chứa đầy hận thù trong đó...
Khi Dư-Ngư-Đồng vừa đỡ Lạc-Băng lên đến miệng hầm thì Thành-Khoán trông thấy liền nhảy bổ đến giơ côn lên cao nhắm đầu Lạc-Băng toan đập xuống một cái thật mạnh. Thấy thế, Văn-Thái-Lai hét lớn một tiếng vung sợi dây thừng, dùng hết sức bình sinh quất một cái vào đầu Thành-Khoán. May cho Thành-Khoán là Trương-Siêu-Trọng kịp thời nhìn thấy nên xông đến dùng kiếm gạt được sợi dây thừng của Văn-Thái-Lai, cứu mạng cho Thành-Khoán.
Văn-Thái-Lai vẫn không chịu buông tha liền tung mình lên một cái, chớp mắt đã đứng ngay sau lưng của Thành-Khoán. Lẹ làng như điển quang hoá thạch, Văn-Thái-Lai dùng ngón tay cứng như thép của chàng điểm mạnh vào hông của Thành-Khoán. Hành động của Văn-Thái-Lai thật là nhanh nhẹn, lại bất ngờ khiến cho Trương-Siêu-Trọng có muốn cứu cũng phải chậm đi một bước. Thành-Khoán sau khi bị điểm trúng thì toàn thân mềm nhũn ra ngã sụm xuống. Trong lúc ngã xuống, hắn đột nhiên dang hai tay ra ôm cứng lấy Văn-Thái-Lai tựa như người sắp chết đuốt vớ được cái phao.
Không để cho Thành-Khoán ôm mình, Văn-Thái-Lai ôm lấy toàn thân hắn giở hổng lên cao hét lớn lên một tiếng liệng hắn xuống hầm. Nhưng chẳng ngờ lúc đó chàng đã quá đuối sức nên thành ra chân đứng không vững. Vì vậy mà chưa buông được Thành-Khoán ra khỏi tay, Văn-Thái-Lai đã ngã bổ theo hắn, cả hai cùng rơi xuống địa huyệt.
Thành-Khoán bị Văn-Thái-Lai điểm trúng huyệt yêu trinh nên hết đường cựa quậy, toàn thân như một khúc gỗ, bị Văn-Thái-Lai rơi đè lên mình. Lúc đó Văn-Thái-Lai đã hoàn toàn kiệt sức nên nằm im trên người Thành-Khoán mà không nhúc nhích gì được nữa...
Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng trong lúc sắp sửa ra khỏi miệng hầm thì vừa vặn gặp lúc Thành-Khoán nhảy tới bổ xuống một côn nên đành phải thụp xuống lại dưới hầm để tránh né. Cả hai đang phân vân chưa biết phải làm gì kế tiếp thì nghe một tiến bịch, như một vật gì to lớn từ trên ném xuống. Hai người lại tưởng là đám người Trương-Siêu-Trọng bắt đầu ném đá xuống với mục đích lấp hang chôn sống hai người nên hết sức hoang mang không biết phải dùng cách nào mà đối phó. Nhưng nhìn kỹ lại thì lại thấy hai khối thịt đang dính cứng vào nhau, mà người nằm trên là Văn-Thái-Lai.
Lạc-Băng mừng quýnh, vội vã chạy đến ôm Văn-Thái-Lai đỡ dậy. Nàng nhìn thấy mặt chàng không còn chút huyết sắc nào, mồ hôi thì tuôn ướt đẫm hết cả người, nhưng đôi mắt vẫn long lanh nhìn nàng đắm đuối đầy vẻ yêu thương và trên miệng nở một nụ cười miễn cưỡng.
Lạc-Băng khổ sở đến cực độ. Nàng cố gượng đỡ Văn-Thái-Lai đứng thẳng người lên. Chân nàng cũng còn đang bị thương, trong người thì đau nhức không thể nào tả nổi. Thật đúng là người bệnh lo cho người hoạn! Văn-Thái-Lai chợt hự một tiếng, từ cổ chàng hộc ra một búng máu tươi. Lạc-Băng lấy tay bụm miệng chàng lại, nhưng vẫn không ngăn được máu nhiễu xuống làm đỏ sẫm cả áo từ cổ đến bụng. Dư-Ngư-Đồng thấy cuộc chiến chẳng thể nào còn tiếp diễn được nữa bèn hướng lên phía miệng hầm gọi lớn:
-Bớ Trương-Siêu-Trọng! Mau biểu nhượng chỗ cho chúng ta lên!
Trương-Siêu-Trọng đã được chính mắt trông thấy võ nghệ của Dư-Ngư-Đồng là Võ-Đang chân truyền, đã giao thủ với nữ anh hào Lạc-Băng, lại thấy Văn-Thái-Lai dù bị thương nặng mà dũng cảm chiến đấu ác liệt với đám thủ hạ của mình nên có ý phục tài thương tiếc cả ba chứ không nỡ làm hại tánh mạng một người nào cả.
Thật ra Trương-Siêu-Trọng từ đầu đã không có ý định giết hại người nào rồi. Vì vậy ông ta chỉ nghĩ cách phá thế trận liên thủ của ba người bằng cách đánh Lạc-Băng ngã xuống dưới hầm. Còn Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng thì Trương-Siêu-Trọng để mặc cho hai người so tài với đám bộ hạ. Chỉ có lúc nguy cấp mới nhảy vào cứu người của bên mình thôi chứ hoàn toàn không ra tay đả thương Văn-Thái-Lai và Dư-Ngư-Đồng. Nếu Trương-Siêu-Trọng khôn nương tay e rằng cả ba đã không còn được toàn tánh mạng. Nhưng chính Trương-Siêu-Trọng cũng không ngờ rằng Văn-Thái-Lai lợi hại đến mức đã kiệt sức mà còn điểm huyệt được Thành-Khoán trước mặt mình mà đích thân ông ta không ra tay cứu kịp để ngăn cản.
Hiện tại, Thành-Khoán lại lọt vào trong tay đối phương thành thủ Trương-Siêu-Trọng nằm trong thế giận quạ sợ hư mái nhà (#4) nên khi nghe Dư-Ngư-Đồng gọi vậy thì Trương-Siêu-Trọng lập tức tránh ra xa miệng để nhường đường cho mấy người Hồng Hoa Hội. Nhưng rút kinh nghiệm, lần này Trương-Siêu-Trọng cầm sẵn bảo kiếm đứng gần miệng hầm để phòng bất trắc có thể xảy ra như lần trước...
Người đầu tiên bước lên là Thành-Khoán, vừa đi vừa nhăn nhó, nhưng có lẽ đã được Văn-Thái-Lai giải huyệt cho nên có lẽ không còn nguy hiểm tới tánh mạng nữa. Theo sát Thành-Khoán là Lạc-Băng, một tay nắm vạt áo và một tay dí đao vào ngay hậu tậm của y. Kế đến là Dư-Ngư-Đồng, một tay đỡ Lạc-Băng phía trước còn một tay dìu Văn-Thái-Lai đang cố sức khệnh khạng lết đi từng bước ở phía sau.
Vừa ra khỏi miệng hầm, Lạc-Băng nhìn đám người đăm đăm, nói như ra lệnh:
-Các người nghe ta nói đây. Bất luận kẻ nào động đến một cọng lông chân của bọn ta, tên này lập tức về chầu Diêm-Vương ngay!
Lời nói của Lạc-Băng có mãnh lực dị thường, mang nặng sát khí khiến đám người Trương-Siêu-Trọng nghe mà phải rợn tóc gáy. Ai nấy đều im lặng mà nhìn chứ không dám rục rịch hay tỏ một hành động khiêu khích nào.
Trương-Siêu-Trọng thấy mũi đoản đao của Lạc-Băng dí sát vào hậu tâm như chỉ chực đâm chết hắn và đôi mắt của Văn-Thái-Lai thì cứ long lên sòng sọc nhìn tả hữu, trước sau nên cũng đâm ra dè dặt mà không dám vọng động.
Dưới sự chỉ huy của Trương-Siêu-Trọng, ba người đưa Thành-Khoán đi đến đâu, đám đông vẹt ra tới đó để nhường đường cho họ đi cho an toàn và thoải mái. Cứ như thế, chẳng bao lâu, Thành-Khoán theo sự chỉ định của Lạc-Băng đã dẫn họ ra khỏi hoa-viên của Thiết-Đảm-Trang mà không chút gì trở ngại.
Ra khỏi hoa-viên, Lạc-Băng nhìn thấy ba con tuấn mã với yên cương sẵn sàng đang cột chặt dưới gốc cây dương liễu. Nữ-hiệp Hồng Hoa Hội liền nảy ra một sáng kiến, trong lòng hết sức vui mừng vì không ngờ trong lúc đường cùng mạt lộ lại có được cơ hội thoát hiểm.
Ba con ngựa này sự thật không phải là của ba đương-gia Hồng Hoa Hội hay của Thiết-Đảm-Trang mà là của Ngô-Quốc-Đống và hai tên bổ khoái sau khi nhận lệnh Trương-Siêu-Trọng phong tỏa Thiết-Đàm-Trang nên cỡi ngựa thật lẹ ra phía sau hoa-viên, tạm cột vào gốc cây ở đó.
Trương-Siêu-Trọng tuy không ngăn được đám người Hồng Hoa Hội đi ra ngõ sau hoa viên nhưng vẫn đi theo bén gót để tùy cơ ứng biến. Trương-Siêu-Trọng là người tinh tế đoán biết được ngay dụng ý của Lạc-Băng khi thấy nét mặt u sầu của nàng bỗng tươi hẳn lên khi nhìn thấy ba con tuấn mã cột dưới gốc cây dương liễu. Hẳn Lạc-Băng nghĩ rằng chỉ cần ba người leo lên lưng ba con tuấn mã là có thể cao bay xa chạy được rồi.
Thấy khâm-phạm trước mặt như sắp sửa vuột mất, mắt của Trương-Siêu-Trọng bỗng trợn lên. Ông ta nghĩ thầm:
-Thành-Khoán sống hay chết thì có quan-hệ chi tới nhiệm-vụ Hoàng-Thượng giao phó cho ta? So với những bí mật mà Văn-Thái-Lai nắm giữ để về báo lại cho Thiếu-Đà-Chủ (#5) thì một tánh mạng của Thành-Khoán có nghĩa lý gì chứ? Ta phụng mệnh vua đem không biết bao nhiêu là cao thủ đi theo là để bắt sống Văn-Thái-Lai trước khi hắn trở về tổng hành-dinh Hồng Hoa Hội, chứ có phải để bảo vệ sinh mạng cho đám tùy tùng đâu? Đừng nói là một Thành-Khoán, nếu phải hy sinh thêm dăm bảy mạng nữa chắc Hoàng-Thượng cũng không trách ta đâu. Vả lại, cũng đã có quá nhiêu là cao thủ đã phải hy sinh vì công tác này rôi. Từ lúc ra khỏi thâm cung, Văn-Thái-Lai đã giết không biết bao nhiêu là cao thủ của triều đình rồi! Bản lãnh hắn cao cường như thế, nếu để hắn chạy thoát thì còn bao nhiêu cao thủ triều đình sẽ phải gục dưới tay hắn nữa? Tóm lại, nếu không dám mạo hiểm thì không thể nào bắt được hắn. Thế thì việc bắt sống Văn-Thái-Lai là đại sự, tất cả những cái khác chỉ là tiểu tiết mà thôi! Hơn nữa, nếu bắt được Văn-Thái-Lai ắt ta lập được công lớn. Nếu vua có trách rằng tại sao phải hy sinh nhiều cao thủ thì đã có Thân-Vương Phúc-An-Khang biện bạch cho ta, lo gì! Vả lại từ đây mà giải Văn-Thái-Lai về Bắc-Kinh thì ai dám chắc là không còn những khó khăn nguy hiểm khác? Nếu cứ giằng co tốn thì giờ mãi thì rốt cuộc chỉ tạo kế hoãn binh cho Văn-Thái-Lai để cho các đồng bọn của hắn trong Hồng Hoa Hội đến cứu hắn mà thôi.
Sau khi suy nghĩ chín chắn, đắn đo lợi hại, Trương-Siêu-Trọng không còn do dự nữa, quyết tâm thi hành theo kế hoạch của mình. Sau đó Trương-Siêu-Trọng lấy ra sợi dây thừng nhặt được từ tay Văn-Thái-Lai vứt bỏ lúc điểm huyệt Thành-Khoán.
Thừa lúc các đương-gia Hồng Hoa Hội đang lo tháo dây cương cột ngựa ở gốc cây nên lơ là không để ý vì tin chắc có Thành-Khoán làm con tin trong tay, Trương-Siêu-Trọng vận công, cầm sợi dây thừng tung ra như hỏa long uốn khúc. Chỉ nháy mắt một cái, toàn thân Văn-Thái-Lai đã bị sợi dây thừng ấy cuốn quanh mình trói lại chẳng khác bị một con trăn xiết chặt. Sau đó, Trương-Siêu-Trọng khẽ giật cái dây thừng một cái, lập tức Văn-Thái-Lai vuột khỏi tay Dư-Ngư-Đồng và bay lại phía ông ta tựa như voi bẻ mía trong bụi kéo ra trước khi đưa lên mồm. Các vết thương của Văn-Thái-Lai lại bị động, máu tươi lại tuôn ra đầm đề, đau đớn chịu không nổi kêu lên một tiếng thất thanh.
Mọi chuyện xảy ra chỉ trong chớp nhoáng, chỉ không đầy một tích tắc, Lạc-Băng vừa chứng kiến cảnh chồng bị Trương-Siêu-Trọng dùng thủ pháp thần sầu bắt dính, lại phải nhìn thấy chàng đau đớn thổ huyết nên tinh thần nàng bấn loạn. Điên tiết lên, Lạc-Băng liền đâm mạnh lưỡi đao một nhát vào hậu tâm Thành-Khoán khiến hắn chỉ kịp rống lên một tiếng thảm thiết rồi ngã xuốngchết tươi. Giết Thành-Khoán xong, Lạc-Băng quát lên một tiếng cầm đao nhảy xổ lại định liều mạng với Trương-Siêu-Trọng một phen. Chẳng ngờ vết thương ở gót chân nàng lại bị chấn động dữ dội khiến cho nàng đau quá không gượng được ngã quỵ xuống đất.
Thấy vợ định liều thân vì mình, lòng Văn-Thái-Lai xót xa vô cùng. Chàng hoảng hốt kêu lớn:
-Đừng lo cho anh! Mau chạy đi!
Lạc-Băng không nghe, chống tay xuống đất lồm cồm ngồi dậy. Nhưng vừa định đứng lên thì lại ngã xuống đất thêm một lần nữa. Thấy không xong, Lạc-Băng bèn nói lớn trả lời Văn-Thái-Lai:
-Không! Chẳng thà là em cùng chết với anh tại đây!
Văn-Thái-Lai bỗng trở nên giận dữ trợn ngược cả hai mắt lên, hét như sấm:
-Em định cãi lời anh à? Em đã hứa với anh như thế nào mà chưa chi đã vội quên rồi hả?
Văn-Thái-Lai lại hộc ra thêm một búng máu tươi rồi ngã lăn xuống đất khiến Lạc-Băng càng thêm đau lòng. Nàng vội vã nói:
-Thôi! Thôi! Em nghe lời anh đây! Em không thất hứa đâu!
Trương-Siêu-Trọng liền sai bọn Đoàn-Đại-Lân, Ngân-Bá-Càn cùng sáu, bảy tên bộ hạ khác lại đỡ Văn-Thái-Lai dậy, lại cẩn thận dặn dò, cấm không cho ai làm cho chàng đau mà phải hết lòng tận tâm bảo vệ chàng.
Trong lúc mọi người chỉ quan tâm để ý đến Văn-Thái-Lai thì Dư-Ngư-Đồng vọt một cái đến gần Lạc-Băng, đỡ nàng dậy rồi kề vai cõng nàng trên lưng chạy thẳng một mạch ra khỏi Thiết-Đảm-Trang.
Một tên bổ-đầu giữ trách nhiệm canh gác liền hươi cây thiết kích đánh xuống vai Dư-Ngư-Đồng chặn đầu chàng lại. Dư-Ngư-Đồng tránh né được ngọn kích dễ dàng, sau đó bồi cho hắn một cước mạnh như vũ bão. Ngọn cước của Dư-Ngư-Đồng vừa nhanh vừa mạnh lại vừa độc khiến tên bổ-đầu không sao tránh nổi, lãnh trọn cước ấy ngã bổ ngửa ra đàng sau, đầu đập xuống nền đá nằm bất tỉnh nhân sự. Một tên bổ-khoái khác vừa chạy đến thì sẵn đà, Dư-Ngư-Đồng dùng thế Đoạt-Mệnh-Cước đá cho hắn một cái ngay văng ra xa bảy tám thước nằm yên bất động.
Hạ xong hai tên bộ hạ của Trương-Siêu-Trọng, Dư-Ngư-Đồng tiếp tục cõng Lạc-Băng nhắm đường chạy thẳng mà không biết là đi đâu. Lạc-Băng lúc ấy đã hoàn toàn bất tỉnh, tựa như một cái xác không hồn. Nàng bị dao động quá mạnh về cả hai mặt tâm thần lẫn thể xác. Vết thương chưa lành bị động mạnh là cái đau đớn cho thể xác. Thấy chồng bị bắt mà không làm gì được là cái đau đớn về tâm thần. Do đó mà Lạc-Băng đau đớn quá đến nỗi ngất đi, mặc cho ai làm gì thì làm, thân phận mình muốn về đâu thì về. Vì thế mà Dư-Ngư-Đồng cõng nàng chạy như bay mà nàng cũng chẳng còn biết gì nữa.
Rất may cho Dư-Ngư-Đồng là Trương-Siêu-Trọng vì thấy chàng cõng Lạc-Băng trên lưng nên ỷ y, nghĩ rằng chỉ cần hai tên thủ hạ là đủ đối phó với chàng rồi nên không cho thêm người đến tiếp viện. Vì vậy sau khi hạ xong hai tên, Dư-Ngư-Đồng không còn gặp ai cản đường mình nữa...
Chạy quanh một lúc, Dư-Ngư-Đồng không hiểu sao mà cánh cửa sau của hoa-viên trong Thiết-Đảm-Trang cứ hiện ra mãi trước mắt mình! Suy nghĩ một hồi, Dư-Ngư-Đồng mới khám phá ra là trong lúc vì quá luýnh quýnh, chàng không chạy ra vòng ngoài mà cứ chạy mãi vòng trong thành ra giống như người lọt vào Bát-Quái-Trận của Khổng-Minh nên chạy hoài mà vẫn không tìm được đường ra. Lúc đó Dư-Ngư-Đồng đã quá sức mỏi mệt. Chàng thầm nghĩ nếu không thoát được ắt thế nào cũng bị Trương-Siêu-Trọng bắt cả Lạc-Băng lẫn thân mình mà giải về kinh một lượt chung với Văn-Thái-Lai. Dư-Ngư-Đồng nhận thấy mình cần phải có một mưu kế nào hữu hiệu hơn mà dùng để thoát thân. Chàng chợt nhớ đến ba con ngựa cột dưới gốc liễu. Giả sử nếu Trương-Siêu-Trọng chậm ra tay một chút thì có lẽ giờ này vợ chồng Văn-Thái-Lai và chàng được thoát hiểm rồi. Dư-Ngư-Đồng nghĩ thầm:
-"Giờ đây, tuy Văn tứ ca đã bị bắt nhưng tại sao mình lại không nghĩ đến cách đó mà đào tẩu?"
Nghĩ đoạn, Dư-Ngư-Đồng mừng rỡ, cõng Lạc-Băng đến chỗ cây dương liễu nơi có ba con tuấn mã cột ở đó. Đặt Lạc-Băng lên lưng một con ngựa, Dư-Ngư-Đồng liền tháo dây cương cột vào thân cây. Chợt đâu có tiếng người chạy đến huỳnh huỵch, Dư-Ngư-Đồng bèn lớn tiếng gọi Lạc-Băng:
-Tẩu tẩu, mau phóng phi đao!
Nghe Dư-Ngư-Đồng gọi, Lạc-Băng mới giật mình tỉnh dậy. Nàng liền rút ra ba mũi phi đao châu mai nhắm vào người đang chạy tới mà phóng liền mấy cái vào mấy người đang chạy đến.
Từng tiếng một kêu lên thảm thiết. Mũi phi đao châu mai ghim ngay yết hầu một tên bổ khoái khiến hắn ngã ngửa. Một tên khác bị phi đao ghim ngay giữa trán trông giống như con thú một sừng. Ngân-Bá-Càn né kịp, không bị ghim vào chỗ hiểm nhưng cũng bị trúng ngay bả vai đau nhức vô cùng. Hai tên bổ khoái khác do Ngân-Bá-Càn chỉ huy được lệnh Trương-Siêu-Trọng đuổi theo bắt nốt hai đương-gia Hồng Hoa Hội còn lại nhưng cũng lại bị Lạc-Băng phóng nên phải tìm chỗ núp chứ không dám lại gần.
Dư-Ngư-Đồng để Lạc-Băng cỡi một con ngựa. Chàng cũng cỡi một con. Con còn lại chàng chàng cũng mở dây dắt theo. Khi đến trước cánh cửa sau vường hoa, Dư-Ngư-Đồng kéo thẳng đầu con ngựa không người cỡi ấy hướng ngay vào chính giữa cửa. Sẵn ống sáo vàng, chàng đưa lên miệng, nhắm vào giữa trán ngựa thổi một hơi dài. Hai mũi phi tiêu trong sáo bay ra cắm ngay vào giữa trán ngựa. Con vật đau quá nhảy chồm lên đá loạn xạ vào đám người của Trương-Siêu-Trọng đang từ trong vườn hoa kéo ra. Vì không đề phòng trước cho nên dù tài giỏi đến đâu cũng không làm sao tránh kịp. Người thì đông mà cánh cửa lại hẹp nên đám người không làm sao tránh né kịp, bị con ngựa như điên cuồng đá cho kẻ thì u đầu sứt trán, người thì ngã lăn bò càng ra, nằm chồng lên nhau một đống. Ai nấy ít nhiều đều bị thương nặng nhẹ. Lợi dụng thời cơ hỗn loạn ấy, Dư-Ngư-Đồng cùng Lạc-Băng phóng ngựa phi như tên bay mà thoát thân.
Ra khỏi Thiết-Đảm-Trang, Dư-Ngư-Đồng và Lạc-Băng cùng nhắm hướng An-Tây mà chạy không ngừng, thoáng một cái đã qua được sáu, bảy dặm đường.
Quay lại nhìn kỹ phía sau không thấy bóng ngựa nào truy kích (#6), hai người mới cảm thấy hơi yên tâm. Lạc-Băng bèn đề nghị với Dư-Ngư-Đồng cho ngựa chạy chậm lại vì nàng đã quá mệt mỏi và đuối sức rồi.
Dư-Ngư-Đồng chiều theo ý Lạc-Băng, nhưng chỉ cho ngựa chạy chậm lại thôi chứ không dám dừng ngựa lại mà nghỉ vì chàng nghĩ chưa chắc gì bọn người đã chịu buông tha mà không đuổi theo.
Đi thêm được chừng ba, bốn dặm đường nữa, Lạc-Băng và Dư-Ngư-Đồng chợt phát hiện ra có bốn kỵ-mã đang phi tới như giông, cát bụi đàng sau tung lên mịt mù...
Chú thích:
(1-) Nhạc-phụ: bố vợ, ý Văn-Thái-Lai muốn nói đến Lạc-Nguyên-Thông, cha của Lạc-Băng.
(2-) Tập cái dài không tập cái ngắn, tập cái cứng không tập cái mềm.
(3-) Trong bản dịch ghi là "Lạc tẩu tẩu". Cách xưng hô như thế thật không đúng. Vì vậy xin sửa lại thành "Văn tẩu tẩu" cho chính xác. Nếu đã dùng họ Lạc để gọi thì phải gọi là "Lạc sư-tỷ" hay "Lạc sư-muội" tùy vào vai vế của Lạc-Băng đối với Dư-Ngư-Đồng thế nào trong Hồng Hoa Hội.
(4-) Nguyên văn: "Ái ốc cập ô"; một câu khác nghĩa tương tự có thể thay thế được là "Đầu thử kỵ khí" (liệng chuột sợ bể đồ).
(5-) Lúc này Trương-Siêu-Trọng chưa biết Trần-Gia-Cách đã thành Tổng-Đà-Chủ.
(6-) Truy kích: đuổi theo.
Chương trước | Chương sau