Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ

Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ


Tác giả:
Đăng ngày: 11-07-2016
Số chương: 51
5 sao 5 / 5 ( 146 đánh giá )

Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 46

↓↓

- Trong tất cả 50 Thiên-phu trưởng Lôi-kỵ của ta, thì ba Thiên-phu trưởng theo tướng quân thuộc loại ưu tú nhất. Thiên-phu trưởng Hòa Khâm (Hoarkamp) là cháu của Thân-vương Bác Nhĩ Truật, nức danh đệ nhất kỵ mã Mông-cổ. Thiên-phu trưởng Sung-Di (Jungit) là cháu của Thân-vương Triết Biệt. Y là đệ nhất tiễn thủ của ta. Thứ ba là Thiên-phu Vương Huy. Y là người Hán, võ công Liêu-Đông của y cao thâm không biết đâu mà lường.

bạn đang xem “Anh Hùng Đông - A dựng cờ bình Mông - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ” tại http://khotruyenhay.gq. Chúc bạn online vui vẻ!!!


Y đứng dậy nói với phò mã Hoài-Đô:


- Phò mã tiến xuống hạ lưu, vượt sông đánh vào hậu quân chúng, rồi chặn đường rút lui. Chúng mất thuyền, bị đánh đầu, chặn cuối, không còn thuyền rút chạy, sẽ bị ta bắt hết.


Y dặn Triệt Triệt Đô, A Tan, Hoài-Đô lần cuối :


- Tên mặt rỗ Hoàng Vui hẹn tái ngộ với ta trên sông. Vậy khi vượt sông các người phải cẩn thân bằng không sẽ trúng quỷ kế của y.


Triệt Triệt Đô độ giang trước. Người ngựa rầm rập di chuyển. Chuyến đầu tiên sang sông gồm một Thiên-phu Lôi-kỵ, một Thiên-phu Đại-lý. Viên Thiên-phu này nguyên là người Hán theo Mông-cổ trên mười lăm năm. Y có tên Vương Huy. Tuy võ công Vương Huy cao cường, nhưng bè của y vẫn có 18 võ sĩ theo bảo vệ, và cũng để uy hiếp tướng địch. Ngột-lương Hợp-thai sai tên Trịnh Đức theo làm thông dịch. Khi bè bắt đầu rời bến, thì từ thượng lưu, một con thuyền bậc trung, dương buồm đang chạy đến. Tiếng nhạc véo von từ trong con thuyền vọng ra, nghe rất lọt tai. Tên Trịnh Đức cảnh cáo Vương Huy :


- Tướng quân phải cẩn thận. Bọn An-Nam thường bầy trò ma trò quỷ để hại ta. Giữa lúc đại quân ta di chuyển ồn ào thế này, nếu không phải quan quân Đại-Việt, thì đùứa nào dám thả thuyền tấu nhạc ? Chắc là trò ma của tên Vui-rỗ !


Đến đó, một tiếng pháo nổ, rồi trên cột của con thuyền kéo lá cờ, trên có hình đứa trẻ chăn trâu đang cầm cò... đái, với hàng chữ :


« Đại-Việt, Đô-thống Hoàng,


Thống lĩnh hiệu binh Hữu Thánh-dực,


Kiêm chỉ huy đội võ sĩ Trấn-quốc »


Vương Huy ra lệnh cho tên chỉ huy 18 võ sĩ với mấy Lôi-kỵ :


- Đem bè chặn ngang con thuyền kia, rồi các người nhảy lên cướp thuyền, bắt sống cho được tên Vui-rỗ, nộp Thái-sư. Đừng giết nó.


Bè ngăn trước con thuyền. Thuyền, bè đụng vào nhau đến rầm một cái. Chín võ sĩ tung mình lên trên nóc thuyền. Binh, binh, binh ba tiếng, mui thuyền bay tung lên cao rồi rơi xuống sông. Bọn võ sĩ còn đang lơ lửng trên không, thì chín cái chài từ trong lòng thuyền tỏa ra, chụp gọn chúng vào trong. Bọn chúng rơi xuống thuyền như những trái mít rụng. Hòa Khâm nhìn rõ chín người tung lưới là chín thiếu nữ tuổi còn trẻ. Y kinh hãi kêu lên :


- Võ công Đông-a, Thiên-la thập bát thức.


Y lại ra lệnh cho bọn võ sĩ nhảy lên thuyền. Chín võ sĩ như chín con hạc tà tà đáp vào mạn thuyền. Chín thiếu nữ cùng bật lên tiếng cười dòn như thác nước đổ, chín cái lưới lại tỏa ra. Bọn Lôi-kỵ chỉ chờ có thế, chúng hướng các thiếu nữ buông tên. Nhanh như chớp, chín thiếu nữ giật tay một cái, chín võ sĩ đã bị bắt, bị đưa lưng ra đỡ tên. Cũng may, chín võ sĩ đều mặc áo giáp. Kịch, kịch , kịch, tên rơi xuống sông. Đến đây thuyền đã rời xa bè. Vương Huy hò hét ra lệnh băén tên, chèo bè đuổi theo. Nhưng thuyền chạy vun vút về phía hạ lưu. Tên bị ghim vào khiên-mây. Phút chốc mất hút, đâu đó, tiếng tiêu véo von vọng lại, lẫn với tiếng Mông-cổ:


- Lôi-kỵ vô địch, nhưng khi đến Đại-Việt thì thành tồi kỵ.


Vương Huy giận cành hông, y văng tục liên tiếp.


Thình lình dây cột bè của y kêu lên những tiếng phựt... phựt..., rồi bị đứt. Những cây chuối rời nhau tản ra. Bao nhiêu người trên bè bị ngã xuống sông hết. Mông-cổ là sắc sân sống trên vùng Thảo-nguyên, chỉ biết cỡi ngựa, săn bắn, nào có biết bơi? Vì vậy những người trên bè bị chìm, bị nước cuốn đi. May mắn Vương Huy là người Hán, vùng sông Hoài, nên y biết bơi. Y bám tay vào một cây chuối. Một cái bè khác chèo lại cứu y. Y giật tay, vọt người lên, tà tà đáp vào vè. Y ngoác mồm chửi:


- Tụi quân khốn nạn, dùng dây cột không chắc...


Lại phựt...phựt... rồi bè của y lại bị tan.


Đám quân trên bè này toàn là người Mông-cổ, chúng lại mặc áo giáp sắt, đeo nhiều chiến cụ, nên bị chìm lỉm. Vương Huy bám vào cây chuối, bơi lóp ngóp, rồi cũng như lần trước, y vọt người lên một cái bè khác. Bây giờ y mới chú ý nhìn: Trên mặt sông có hàng mấy chục bè bị đứt dây. Một tên lao binh vớt sợi dây cột bè trình cho y. Y giật bắn người lên, vì rõ ràng dây bị vết dao cắt chứ không phải bị dứt vì sức nặng chuyên chở.


Thình lình ầm...ầm...năm đứa trẻ từ dưới nước vọt mình lên, mỗi đứa sớt một Lôi-kỵ, rồi lăn xuống sông biến mất. Bấy giờ Vương Huy mới biết những bè bị cắt dây là do bọn con nít lặn dưới nước thi hành.


Y kiểm điểm lại, tất cả 12 bè bị cắt dây, trên trăm quân bị chết đuối.


Phải hơn một giờ, Triệt Triệt Đô mới đổ bộ xong ba Thiên-phu Lôi-kỵ, ba Thiên-phu Đại-lý. Hàng ngũ chỉnh đốn lại. Vương Huy báo cho Triệt Triệt Đô biết việc 18 võ sĩ bị mấy thiếu nữ trong con thuyền vô danh bắt sống. Hơn trăm Lôi-kỵ bị bọn con nít làm vỡ bè, bị nước cuốn đi mất. Nghe tin này Triệt Triệt Đô cau mặt lại :


- Con bà nó ! Bọn hèn nhát.


Gã Trịnh Đức tỏ vẻ hiểu biết:


- Cái bọn con nít lặn dưới nước cắt dây này là đội Ngạc-ngư, do con nuôi của Hưng-Đạo vương tên Yết-Kiêu chỉ huy. Chúng có thể ở dưới nước hàng giờ.


- Yết-Kiêu với đội Ngạc-ngư là bọn nào?


- Yết-Kiêu là một đứa trẻ mồ côi, gốc người vùng biển Hạ-long. Y tuổi khoảng 12-13, mới được Hưng-Đạo vương nhận làm con nuôi. Còn đội Ngạc-ngư có 18 đứa, đều là con cháu ngư dân trên vùng biển Hạ-long. Chúng rất giỏi thủy chiến, lại gan dạ không ai bì kịp. Nếu ta có thủy quân, thì phải coi chừng, bằng không giữa lúc giao chiến, chúng đục thuyền thì nguy thay. Tuy ta không có thủy quân, nhưng mỗi khi dùng thuyền bè vượt sông, phải tối đề phòng chúng.


Sau ba ngày gây bất ổn cho quân Mông-cổ trên đoạn đường từ biên giới đến ngã ba sông Bạch-hạc, Vũ-Uy vương tâu về triều, cùng phúc trình lên Hưng-Đạo vương. Bấy giờ Nguyên-Phong hoàng đế đang ở Bình-lệ-nguyên. Ngài truyền sai chim ưng mang chiếu chỉ ra mặt trận biên giới phong thưởng cho tất cả tướng sĩ có công. Trong đó :


- Đô-thống Trần Quới thống lĩnh hiệu binh Tiền-thánh dực, được thăng Trấn-biên tướng quân, tước Quy-ninh tử.


- Đô-thống Bùi Hoán, được thăng Phì-đức tướng quân, Kiên-long tử.


- Đô-thống Hoàng Vui được thăng Văn-mẫn thượng tướng quân tước Kiêu-kỵ bá.


A Tan cũng đã đổ bộ xong. Hai tướng bàn với nhau . Triệt Triệt Đô thắc mắc:


- Cứ như ước tính của Thái-sư, thì nhất định bọn Việt sẽ tiến lên tấn công ta. Thế mà ta sang sông, lập trận cũng lâu, tại sao chúng lại im lặng thế kia ?


A Tan bị khích động mấy ngày liền, tinh thần trở lên thất thường :


- Tôi nghĩ bọn Nam-man chỉ có tài cắn trộm, có tài bầy trò ma, trò quỷ mà thôi. Nếu chúng không đánh ta, không lẽ ta cứ án binh tại đây rồi đêm nay chúng lại tới cắn trộm ? Vậy theo tôi nghĩ, ta cứ xua quân phá trận của chúng, rồi bắt sống Trần Cảnh. Trần Cảnh bị bắt, thì coi như An-Nam bình định xong.


- Thôi thì ta cứ án binh thêm một giờ nữa xem sao ?


Triệt Triệt Đô sai một Thập-phu thám mã dò dẫm trận Việt tại Bình-lệ nguyên. Hơn ba khắc sau, đội thám mã trở về báo :


- Quân Việt có hai cánh. Một cánh dàn ra tại bờ sông . Cánh này toàn Thủy-quân thuộc hạm đội Âu-Cơ. Còn cánh trên bộ, có vua Việt thân chinh. Vua Việt dàn quân trên một cánh đồng. Phía sau lưng là những xóm làng, đồng lầy. Trận của chúng rất kỳ lạ : Cứ một đội Tượng-binh, một đội Kỵ-binh, một đội Ngưu-binh thì có hai đội bộ binh. Trận thế rất vững.


Nhìn sang phía bên kia sông thấy quân của phò mã Hoài-Đô đã di chuyển xuống hạ lưu rồi, Triệt Triệt Đô cho rằng qua lẽ giờ này cánh quân ấy đang qua sông.


Hơn giờ trôi qua, vẫn không thấy bóng quân Việt.


Thám mã báo :


- Từ phía Nam, có một đội kỵ mã, y phục giống Lôi-kỵ của ta, đang phi tới.


- Hay quá ! Có lẽ họ là người của phò mã Hoài-Đô sai liên lạc với ta đấy.


Đội kỵ mã phi như bay, mỗi lúc một gần. Gã Thiên-phu trưởng Hoà-Khâm ra lệnh :


- Ngăn chúng lại.


Một Thập-phu dàn ngang, vẫy tay ra hiệu cho đội kỵ mã ngừng lại. Nhưng dường như bọn này không tuân lệnh. Ngựa vẫn phi, gió cuốn bụi bay mịt mờ. Thấy triệu chứng bất thường, Hòa Khâm quát lớn :- Dùng thoòng loọng lôi cổ chúng xuống.


Thoòng-loọng tung lên, chín Lôi-kỵ bị lộn đầu xuống đất. Mọi người nhìn lại, thì ra chín xác chết của bọn võ sĩ bị tung chài bắt dưới sông ban ngãy. Còn một Lôi-kỵ, đầu đội mũ đỏ chói, y né đầu tránh khỏi, rồi bắt lấy giây giật mạnh. Tên võ sĩ tung giây bị bay tung lên cao. Gã bị tên mũ đỏ kẹp vào nách, quay đầu ngựa chạy. Biến cố xẩy ra nói thì chậm, nhưng kẻ tung giây, người giật giây, bắt người, quay đầu ngựa...trong chớp nhoáng. Gã mũ đỏ quay mặt lại, để tay lên mũi trêu Triệt Triệt Đô. Y nói bằng tiếng Mông-cổ:


- Ê! Tên Thát-đát kia! Có giỏi phi ngựa đua với tớ?


Bị khích động, không làm chủ được, Triệt Triệt Đô ra lệnh cho Hòa-Khâm đuổi theo. Gã mũ đỏ dường như không biết những gì xẩy ra phía sau, y vẫn cắm đầu ra roi cho ngựa phi. Nhưng y kẹp thêm một người, nên chưa đầy một khắc, y đã bị Hòa Khâm đuổi kịp. Thình lình y tung người lên cao, đứng trên lưng ngựa, tay y ném tù nhân về sau. Hòa Khâm không kịp phản ứng, thân thể gã tù binh trúng đầu ngựa của hắn, rồi rơi xuống đất. Con ngựa cất cao vó trước hý lên, nhưng nó đã đạp phải gã tù binh. Quyết bắt cho đươc đối thủ, Hòa Khâm thúc ngựa đuổi theo. Ngựa của gã mũ đỏ chạy vòng vòng quanh cánh đồng mênh mông, dường như trêu ghẹo đệ nhất kỵ mã của đoàn quân Nam-chinh Mông-cổ.


Thấy Hòa Khâm không bắt được gã mũ đỏ, Triệt Triệt Đô ra lệnh cho Vương Huy vọt ngựa chặn đầu y. Gã mũ đỏ không coi Vương Huy ra gì, khi hai ngựa sắp giao nhau, Vương Huy phát chưởng tấn công. Gã mũ đỏ cười một tiếng, rồi chĩa tay phóng một chỉ. Nếu Vương Huy tiếp tục phóng chưởng thì lòng bàn tay của y bị xuyên thủng. Là một võ sư phái Liêu-Đông, đã đấu hàng nghìn trận, kinh nghiệm có thừa. Vương Huy biến chiêu thành cái gạt. Gã mũ đỏ thu chỉ về, thì vừa lúc đó Hòa Khâm đã đuổi kịp. Thế là ngựa của gã mũ đỏ bị ép hai bên bởi ngựa của Hòa Khâm, Vương Huy.


Ba ngựa phi song song. Dường như gã mũ đỏ không hề sợ hãi. Gã thè lưỡi ra trêu hai địch thủ. Hòa Khâm, Vương Huy đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng phát chưởng tấn công đối thủ. Gã mũ đỏ cười nhạt, không phát chiêu chống lại, đã vậy gã còn méo miệng trêu kẻ thù. Kình lực của hai chưởng cực kỳ trầm trọng đã bao trùm gã. Thình lình gã lắc mình một cái, người gã đã nằm dưới bụng ngựa. Hai chân gã kẹp vào hông ngựa. Chưởng của Hòa Khâm, Vương Huy chạm vào nhau, bình một tiếng, cả hai cùng bị trấn động, chân tay tê liệt, ngựa bị kình lực rung động, cũng chạy chậm lại. Bấy giờ gã mũ đỏ bật ngồi lại trên lưng ngựa, tay gã phát hai chỉ, trúng giữa mắt ngựa của Hòa Khâm, Vương Huy. Con ngươi bị lòi ra, hai ngựa hý lênh thảm thiết, rồi khuỵu vó trước, ngã lộn đi hai ba vòng, quật chủ nhân văng ra xa. Gã mũ đỏ cười ha hả, gã nói vọng lại bằng tiếng Mông-cổ:


- Bọn bay chỉ là tụi mọi rợ vùng Thảo-nguyên, mà đòi đấu thuật kỵ mã với con cháu Phù-đổng Thiên-vương ư?


Lời nói vừa dứt, thì ngựa của y đã rẽ vào một ngõ hẻm hai bên toàn tre.


Triệt Triệt Đô than với A Tan:


- Từ trước đến giờ, chúng mình cứ tưởng Lôi-kỵ của ta có tài kỵ mã vô địch. Không ngờ, gã kỵ mã ban nãy còn tài tình hơn. Y ngồi trên mình ngựa, co tay một cái, bắt người, kẹp vào nách. Con ngựa thi khụy hai vó trước, rồi quay một vòng. Trong quân chúng ta, không ai làm được việc đó cả.


Trịnh Ngọc được dịp khoe cái hiểu biết :


- Thuật kỵ mã của chúng ta do phò mã Trần Thủ-Huy với tướng chỉ huy đội võ sĩ Long-biên huấn luyện. Mà thuật kỵ mã này xuất thân từ phái Sài-sơn. Người chỉ huy mặt trận Bình-lệ-nguyên là Vũ-kỵ thượng tướng quân Lê Tần. Y là em ruột của chưởng môn phái Sài-sơn.


Triệt Triệt Đô cũng nghe nói qua về vụ này. Y hỏi :


- Nguồn gốc thuật kỵ mã của phái Sài-sơn do ai nghĩ ra ?


- Do tổ sư của phái là Phù-Đổng Thiên-vương chế ra cách đây 3 nghìn năm. Trải ba nghìn năm dài, các đời sau bổ xung, thêm thắt vào, nên thuật kỵ mã của phái này vô địch thiên hạ.


Để tỏ ra hiểu biết, Trịnh Ngọc thuật lại hành trạng Phù-Đổng Thiên-vương cho bọn Triệt Triệt Đô nghe.


Thình lình Hòa Khâm hét lên một tiếng, rồi run bần bật. Nhìn y, Triệt Triệt Đô giật bắn người lên:


- Cái gì? Dường như người bị trúng độc Liêu-Đông của tên mũ đỏ rồi hả?


Y quay lại hỏi Trịnh Ngọc:


- Trong các phái võ An-Nam, có phái nào biết xử dụng độc chưởng Liêu-Đông không?


- Không!


Hòa Khâm đau quá, y uốn cong người lại, tay chỉ vào Vương Huy. Vương Huy tỉnh ngộ:


- Chết rồi! Hồi nãy tôi phát chưởng tấn công tên mũ đỏ. Trong khi Hòa Khâm cũng tấn công y. Hai chưởng của chúng tôi chạm nhau.


Y móc trong bọc ra một viên thuốc, nhét vào miệng Hòa Khâm. Hòa Khâm vận công cho thuốc mau tan.


Sang giờ Mùi, thì Kỵ-mã phi tiễn báo với Triệt Triệt Đô, A Tan :


- Quân của phò mã đã vượt sông xong, đang chuẩn bị đánh vào hậu quân địch. Vậy xin hai tướng quân xuất binh ngay.


Đạo quân của A Tan đã chỉnh bị từ lâu. Y cầm cờù phất lên:


- Tiến!


Thiên-phu Lôi-kỵ vọt ngựa theo con đường dọc bờ sông. Phía sau, ba Thiên-phu Đại-lý nối đuôi nhau, rầm rộ tiến bước.


Đạo quân của Triệt Triệt Đô gồm có ba Thiên-phu Lôi-kỵ, mười Thiên-phu Đại-lý. Để giữ sức người, sức ngựa, y ra lệnh quân tiến từ từ. Khi thấy trận Việt hiện ra xa xa, y mới phất cờ. Lập tức Thiên-phu thứ nhất chia làm hai. Năm bách phu dàn hàng ngang, người hú lên rùng rợn, ngựa hý inh ỏi, rồi cùng lao tới. Lúc còn cách trận Việt ba chục trượng, tất cả cùng dương cung, buông tên. Trận Việt vẫn giữ nguyên, quân sĩ đưa khiên-mây lên hứng tên. Tên vừa bắn vào mộc, thì Lôi-kỵ đã tới sát phía trước, chúng phóng lao vào trận, rồi quay ngựa chạy về trận mình. Bấy giờ quân Việt mới dương cung bắn theo. Họ không bắn kỵ mã, mà bắn vào ngựa. Hơn trăm ngựa ngã lăn ra, vật kỵ mã xuống đất. Đám kỵ mã bỏ ngựa chạy theo quân mình. Đến đây, năm bách phu thứ nhì đã vọt ngựa tới, cũng dương cung bắn, phóng lao, rồi chạy. Quân Việt lại bắn ngựa. Hơn trăm kỵ mã ngã ngựa. Ky mã lại bỏ ngựa, chạy theo quân.


Triệt Triệt Đô đứng xa quan sát hai cuộc tấn công. Y kêu lên :


- Lạ thực. Chúng ta đã đánh hàng trăm trận, hàng mấy chục nước. Không đội quân nào chống trả được hai đợt xung phong. Tại sao bọn Việt lại biết cái kẽ hở của ta là : Lúc quân phóng lao rồi chạy, chúng chờ đợi sẵn rồi buông tên ? Ta mất hơn hai trăm chiến mã rồi ! Được ! Ta cho tấn công hai đợt nữa.


Y cầm cờ phất. Lôi-kỵ thúc ngựa vọt lên, nhưng ngựa vừa sải được mấy bước thì ngã lăn ra, quật kỵ mã xuống đất. Biến cố xẩy ra đột ngột. Tuy kinh ngạc, nhưng là một tướng tài, Triệt Triệt Đô cho rằng ngựa quá mệt. Y ra lệnh cho Thiên-phu khác thay thế. Ngựa hý, kỵ mã rú rùng rợn rồi lao tới. Triệt Triệt Đô cười sung sướng :


- Xem lần này trận Việt có giữ nổi không ?


Y chợt để ý, thấy quân Việt đã lùi lại đến hơn trăm trượng. Lớp sóng Lôi-kỵ lao tới như núi lở, băng tan. Nhưng khi vừa nhập vào khu đất quân Việt lui, thì ngựa hý lên những tiếng thảm thiết, rồi con thì nhảy loạn hàng ngũ, con thì ngã lăn ra dẫy tê tê. Giữa lúc ấy, trận Việt mở ra. Một đội dũng sĩ, áo chẽn, tay cầm đoản đao xuông ra chém phầm phập. Loáng một cái, hơn năm trăm kỵ mã với ngựa bị giết. Thanh toán xong đám kỵ mã, các dũng sĩ Việt lùi trở về, cửa trận đóng lại như cũ.


Đứng quan sát, Triệt Triệt Đô kinh hãi :


- Chết rồi, năm bách phu của ta trúng bãi chông ! Trời ơi ! Quân Mông-cổ chuyên dùng lối lùi trận, lừa cho địch vào bãi chông, rồi giết. Tại sao bọn Việt cũng biết ? Hơn nữa, chúng xử dụng thuật này tinh vi hơn ta. Chúng đợi Lôi-kỵ xung phong rồi, mới lùi lại . Ta có muốn ra lệnh thu quân cũng không kịp ! Hà ! Nhất định trong quân Việt có một tướng tài Mông-cổ. Y biết rất rõ chiến thuật của ta, y đưa ra phương pháp phá vỡ. Làm sao bây giờ ?


Triệt Triệt Đô có hai Thiên-phu Lôi-kỵ, thì Thiên-phu thứ nhất mà y dẫn theo từ biên giới về đây, đã bị ngã ban nãy. Thiên-phu thứ nhì này Ngột-lương Hợp-thai mới cấp cho y, bây giờ bị thiệt hại một nửa. Y chỉ còn có năm Bách-phu thì làm gì ?


Giữ lúc y kinh hoàng, thì viên quan phụ trách chữa ngựa báo :


- Thưa tướng quân. Chúng ta bị trúng kế giặc rồi. Cái tên Đỗ Thanh hôm qua trao thuốc cho ta, bảo sáng nay cho uống để trị tuyệt nọc trúng độc...Thực ra thuốc đó là thuốc độc, làm ngựa bị tê liệt bốn chân.


Chương trước | Chương sau

↑↑
Anh hùng Vô lệ - Cổ Long

Anh hùng Vô lệ - Cổ Long

Giới thiệu: Giọng ca của ca nữ, điệu múa của vũ giả, kiếm của kiếm khách, bút

11-07-2016 20 chương
Có một mùa hoa ở lại

Có một mùa hoa ở lại

Ai rồi cũng sẽ đi qua những tháng ngày vụng dại của tuổi trẻ. Ai rồi cũng có lúc

24-06-2016
Gửi Ba lời xin lỗi!

Gửi Ba lời xin lỗi!

Xin lỗi ba! Ba à! Con mong rằng lời xin lỗi con gái nói ra lúc này là chưa quá

24-06-2016
Chạy đâu cho hết nắng

Chạy đâu cho hết nắng

Vắt lên vai quá nhiều mối tình, chẳng phải anh là người lăng nhăng hay đào hoa, mà là

24-06-2016
Ghen...

Ghen...

Trên đời này, nếu có cuộc thi coi ai ghen tuông dữ nhất thì chắc vợ tôi thể nào cũng

29-06-2016

Disneyland 1972 Love the old s